Chấm dứt hợp đồng với lao động nữ đang nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi

Ngày gửi: 07/08/2015 lúc 23:02:24

Mã số: HTPL36307

Câu hỏi:

Xin chào luật sư, chị của em là một công nhân công ty may xuất khẩu từ ngày 01 tháng 07 năm 2014 theo chế độ hợp đồng lao động thời hạn 3 năm.Tháng 12/2015, chị ấy nghỉ sinh con 6 tháng theo quy định. Đầu tháng 06/2016, chị ấy trở lại làm việc sau thời gian nghỉ sinh, ngày 15/06/2016 chị được Giám đốc Công ty thông báo Công ty sẽ ra quyết định chấm dứt hợp đồng lao động vào ngày 01/06/2016 và giải quyết các quyền lợi đối với chị theo quy định của pháp luật. Chị ấy cho rằng việc Giám đốc thông báo và quyết định chấm dứt hợp đồng lao động đối với chị trong thời gian chị đang nuôi con nhỏ, đã vi phạm quy định tại Khoản 3 Điều 155 của Bộ Luật lao động. Theo Bộ luật Lao động hiện hành, thông báo của Giám đốc đúng hay sai? Vì sao? 

Câu trả lời tham khảo:

Hệ thống pháp luật Việt Nam (hethongphapluat.com) xin chân thành cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến chúng tôi. Sau khi nghiên cứu, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi xin đưa ra câu trả lời có tính chất tham khảo như sau:

1. Căn cứ pháp lý

– Bộ luật Lao động 2012;

2. Nội dung tư vấn

Theo Khoản 3, Điều 39 Bộ luật lao động 2012 thì trường hợp người sử dụng lao động không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động

"3. Lao động nữ quy định tại khoản 3 Điều 155 của Bộ luật này."

Bên cạnh đó, Khoản 3, Điều 155 Bộ luật lao động 2012 quy định về việc bảo vệ chế độ thai sản đối với lao động nữ như sau:

Như vậy, theo quy định trên thì khi người lao động đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì người sử dụng lao động sẽ không được áp dụng hình thức đơn phương chấm dứt hợp đồng với lao động nữ vì lý do mang thai, kết hôn, nghỉ thai sản hoặc nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi. Như vậy, nếu công ty chấm dứt vì lý do chị của bạn nghỉ thai sản là trái với quy định pháp luật. 

Nếu công ty chấm dứt hợp đồng lao động không phải vì một trong những lý do nêu trên thì phải bảo đảm căn cứ chấm dứt theo quy định của Điều 38 Bộ luật Lao động 2012:

Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động;

Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 12 tháng liên tục đối với người làm theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, đã điều trị 06 tháng liên tục, đối với người lao động làm theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và quá nửa thời hạn hợp đồng lao động đối với người làm theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa hồi phục. Khi sức khỏe của người lao động bình phục, thì người lao động được xem xét để tiếp tục giao kết hợp đồng lao động;

Do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác theo quy định của pháp luật, mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc;

Người lao động không có mặt tại nơi làm việc sau thời hạn tạm hoãn hợp đồng lao động.

Đồng thời, do chị bạn làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn nên khi chấm dứt hợp đồng lao động vì một trong những lý do nêu trên thì công ty phải báo trước ít nhất 30 ngày. Nếu công ty không đáp ứng điều kiện nêu trên thì sẽ bị coi là đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.   

 Xét trong trường hợp của bạn, bạn trình bày chị của bạn là một công nhân công ty may xuất khẩu từ ngày 01 tháng 07 năm 2014 theo chế độ hợp đồng lao động thời hạn 3 năm, đến 01/7/2017 hợp đồng hết hạn. Tháng 12/2015, chị bạn nghỉ sinh con 6 tháng theo quy định. Đầu tháng 06/2016, chị bạn trở lại làm việc sau thời gian nghỉ sinh, ngày 15/06/2016 chị bạn được Giám đốc Công ty thông báo Công ty sẽ ra quyết định chấm dứt hợp đồng lao động vào ngày 01/06/2016 và giải quyết các quyền lợi đối với chị theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp này, chị bạn đang nuôi con dưới 12 tháng thì việc Giám đốc thông báo và ra quyết định chấm dứt hợp đồng với chị bạn là sai quy định của pháp luật. Chị bạn có thể làm đơn khiếu nại tới Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội nơi công ty chị bạn đóng trụ sở để được giải quyết hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân cấp huyện nơi có trụ sở của công ty để đảm bảo quyền lợi của chị bạn.

Trong trường hợp công ty đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật thì công ty sẽ phải bồi thường cho chị bạn căn cứ theo quy định tại Điều 42 Bộ luật lao động 2012 như sau:

 Phải nhận chị bạn trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết và phải trả tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong những ngày người lao động không được làm việc cộng với ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.

 Trường hợp chị bạn không muốn tiếp tục làm việc, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều 42 Bộ luật lao động 2012 người sử dụng lao động phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 Bộ luật lao động 2012.

 Trường hợp công ty không muốn nhận lại chị bạn và chị bạn đồng ý, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều 42 Bộ luật lao động 2012 và trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 Bộ luật lao động 2012, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm nhưng ít nhất phải bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động.

 Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong hợp đồng lao động mà chị bạn vẫn muốn làm việc thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều 42 Bộ luật lao động 2012, hai bên thương lượng để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động.

 Trường hợp công ty vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của chị bạn trong những ngày không báo trước.

Thời gian hưởng chế độ thai sản cho lao động nữ mới nhất

Trên đây là câu trả lời của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam liên quan đến yêu cầu câu hỏi của bạn. Hy vọng câu trả lời của chúng tôi sẽ hữu ích cho bạn.

Nếu có bất cứ vướng mắc gì về pháp lý mời bạn tiếp tục đặt câu hỏi. Chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp.

Trân trọng cảm ơn.

BBT. Hệ Thống Pháp Luật Việt nam

Lưu ý: Nội dung tư vấn của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam trên đây chỉ mang tính tham khảo. Tùy vào từng thời điểm và đối tượng khác nhau mà nội dung tư vấn trên có thể sẽ không còn phù hợp do sự thay đổi của chính sách hay quy định mới của pháp luật.