Chồng có hành vi đánh đập thì có thể khởi kiện ra Tòa không?
Ngày gửi: 07/08/2015 lúc 23:02:24
Câu hỏi:
Câu trả lời tham khảo:
Hệ thống pháp luật Việt Nam (hethongphapluat.com) xin chân thành cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến chúng tôi. Sau khi nghiên cứu, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi xin đưa ra câu trả lời có tính chất tham khảo như sau:
1. Căn cứ pháp lý
– Luật Hôn nhân và gia đình 2014;
– Luật phòng chống bạo lực gia đình 2007
2. Nội dung tư vấn
“Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch.
Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không có giá trị pháp lý”.
Theo đó, trong trường hợp của bạn thì bạn và chồng bạn không có giấy đăng ký kết hôn mà chỉ tổ chức kết hôn. Theo quy định trên thì nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng.
Theo quy định của Luật phòng chống bạo lực gia đình 2007 thì hành vi đánh đập của nam đối với nữ chung sống như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn thì cũng được xác định là hành vi bạo lực gia đình. Như vậy, người chung sống như vợ chồng với bạn, không có đăng ký kết hôn có hành vi đánh đạp bạn thì bạn có thể trình báo ra cơ quan có thẩm quyền để yêu cầu xử lý về hành vi bạo lực gia đình.
Đối với hành vi đánh đập bạn, chồng bạn sẽ bị xử phạt hành chính theo quy định tại Khoản 1 Điều 49 Nghị định 167/2013/NĐ-CP như sau:
“Điều 49. Hành vi xâm hại sức khỏe thành viên gia đình
1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 1.500.000 đồng đối với hành vi đánh đập gây thương tích cho thành viên gia đình.
2. Phạt tiền từ 1.500.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
a) Sử dụng các công cụ, phương tiện hoặc các vật dụng khác gây thương tích cho thành viên gia đình;
b) Không kịp thời đưa nạn nhân đi cấp cứu điều trị trong trường hợp nạn nhân cần được cấp cứu kịp thời hoặc không chăm sóc nạn nhân trong thời gian nạn nhân điều trị chấn thương do hành vi bạo lực gia đình, trừ trường hợp nạn nhân từ chối.
3. Biện pháp khắc phục hậu quả:
Buộc xin lỗi công khai khi nạn nhân có yêu cầu đối với các hành vi quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều này.”
Trong trường hợp bạo lực, bạn không muốn chung sống cùng thì bạn có thể làm đơn khởi kiện ly hôn ra Tòa án để chấm dứt quan hệ hôn nhân, chấm dứt việc bạn bị chồng đe dọa thì Tòa án chỉ giải quyết vấn đề về tranh chấp tài sản và nuôi con (nếu có), Tòa án không công nhận hai bạn là vợ chồng.
Theo quy định tại khoản 1, Điều 14 Luật hôn nhân gia đình 2014 thì nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Còn quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật hôn nhân và gia đình 2014. Như vậy, giữa bạn và chồng bạn không phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng. Tuy nhiên, chồng bạn có trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con cùng với bạn.
– Về việc chia tài sản được quy định tại Điều 16 Luật hôn nhân và gia đình 2014 thì về nguyên tắc nếu là tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó; nếu là tài sản chung được chia theo thoả thuận của các bên; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết, có tính đến công sức đóng góp của mỗi bên; ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và con theo chế định tài sản chung quy định tại Bộ luật dân sự 2015.
Trên đây là câu trả lời của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam liên quan đến yêu cầu câu hỏi của bạn. Hy vọng câu trả lời của chúng tôi sẽ hữu ích cho bạn.
Nếu có bất cứ vướng mắc gì về pháp lý mời bạn tiếp tục đặt câu hỏi. Chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp.
Trân trọng cảm ơn.
BBT. Hệ Thống Pháp Luật Việt nam