Có bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi người bị hại đã rút đơn yêu cầu không?
Ngày gửi: 12/02/2018 lúc 23:02:24
Câu hỏi:
Câu trả lời tham khảo:
Hệ thống pháp luật Việt Nam (hethongphapluat.com) xin chân thành cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến chúng tôi. Sau khi nghiên cứu, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi xin đưa ra câu trả lời có tính chất tham khảo như sau:
Điều 104 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung 2009 quy định về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác như sau:
“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;
b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;
c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;
d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
e) Có tổ chức;
g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;
h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;
i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;
k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.
Theo như thông tin bạn cung cấp, em bạn đã có hành vi gây thương tích cho người khác với tỉ lệ thương tật là 15%. Đối chiếu với quy định trên, nếu em bạn không thuộc các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 104 trên thì em bạn phạm tội theo khoản 1 Điều 104 BLHS. Ngược lại, nếu em bạn thuộc các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 104 thì em bạn phạm tội theo khoản 2 Điều 104 BLHS.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 024.6294.9155
Điều 164 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 quy định trong một số trường hợp, Cơ quan điều tra phải ra quyết định đình chỉ điều tra, cụ thể như sau:
a) Có một trong những căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 105 và Điều 107 của Bộ luật này hoặc tại Điều 19, Điều 25 và khoản 2 Điều 69 của Bộ luật hình sự. Đó là các trường hợp sau:
– Người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm (đối với vụ án chỉ khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại), trừ trường hợp có căn cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức (khoản 2 Điều 105 BLTTHS);
– Không có sự việc phạm tội (Khoản 1 Điều 107 BLTTHS);
Người bị hại trong tội bức tử– Hành vi không cấu thành tội phạm (Khoản 2 Điều 107 BLTTHS);
– Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự (Khoản 3 Điều 107 BLTTHS);
– Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật (Khoản 4 Điều 107 BLTTHS);
– Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự (Khoản 5 Điều 107 BLTTHS );
– Tội phạm đã được đại xá (Khoản 6 Điều 107 BLTTHS);
– Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác (Khoản 7 Điều 107 BLTTHS);
– Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội (Điều 19 BLSH 1999);
– Trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 25, Điều 69 Bộ luật hình sự 1999.
b) Đã hết thời hạn điều tra mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm.
Theo khoản 2 Điều 105 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 quy định trong một số trường hợp, chỉ được khởi tố vụ án khi có yêu cầu của người bị hại. Cụ thể:
“1. Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.”
Như vậy, trong trường hợp phạm tội Cố ý gây thương tích theo khoản 1 điều 104 BLHS 1999, cơ quan điều tra chỉ được khởi tố vụ án nếu có yêu cầu của người bị hại. Và theo quy định tại Điều 164 BLTTHS 2003 đã dẫn ở trên, trường hợp này nếu người bị hại rút đơn yêu cầu thì cơ quan điều tra phải ra quyết định đình chỉ điều tra, mọi hoạt động điều tra bị đình chỉ. Người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.
Tóm lại, trường hợp của em trai bạn, nếu chính người bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố vụ án và em trai bạn phạm tội theo khoản 1 Điều 104 BLHS thì cơ quan Điều tra sẽ ra quyết định đình chỉ vụ án, em trai bạn sẽ không bị khởi tố về hành vi gây thương tích này nữa. Tuy nhiên, nếu em trai bạn phạm tội theo khoản 2 Điều 104 thì cơ quan điều tra sẽ không có căn cứ để đình chỉ điều tra và vụ án vẫn được tiến hành như bình thường.
Hy vọng rằng sự tư vấn của chúng tôi sẽ giúp bạn lựa chọn phương án thích hợp nhất để giải quyết những vướng mắc của bạn. Nếu còn bất cứ thắc mắc gì liên quan đến sự việc bạn có thể liên hệ Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7 của Luật sư: 024.6294.9155 để được giải đáp.
Trên đây là câu trả lời của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam liên quan đến yêu cầu câu hỏi của bạn. Hy vọng câu trả lời của chúng tôi sẽ hữu ích cho bạn.
Nếu có bất cứ vướng mắc gì về pháp lý mời bạn tiếp tục đặt câu hỏi. Chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp.
Trân trọng cảm ơn.
BBT. Hệ Thống Pháp Luật Việt nam