Đòi lại tiền trúng vé số

Ngày gửi: 12/02/2018 lúc 23:02:24

Mã số: HTPL40661

Câu hỏi:

Thưa luật sư, tôi có vấn đề này mong

Câu trả lời tham khảo:

Hệ thống pháp luật Việt Nam (hethongphapluat.com) xin chân thành cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến chúng tôi. Sau khi nghiên cứu, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi xin đưa ra câu trả lời có tính chất tham khảo như sau:

Trong trường hợp này bạn đó đã đưa ra thông tin nhằm lừa dối bạn để cho rằng bạn tin đó là sự thật bằng cách nói với bạn là 3 tấm vé đó không hề trúng thưởng. Sau đó bạn đó lại tiếp tục có hành vi lừa dối thứ hai là sau khi bạn biết kết quả xổ số ngày hôm đó thì bạn đó lại tiếp tục nói là 3 vé đó không trúng thưởng và đã xé đi.

Trong trường hợp này thì tài sản đang bị chiếm hữu đang ở trong sự chiếm hữu của người phạm tội. Ở đây lẽ ra bạn đó phải giao lại số tiền 150 triệu đồng cho bạn nhưng lại tự ý đi nhận giải là nói với bạn là vé không trúng. Nên tội phạm đã hoàn thành ngay từ khi bạn đó tự ý đi nhận giải mà không nói cho bạn.

>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 19006568

Với những hành vi trên thì bạn đó đủ yếu tố để cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 139, Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009.

1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Tái phạm nguy hiểm;

d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

g) Gây hậu quả nghiêm trọng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

Đòi lại tiền cho vay hoạt động đầu tư kinh doanh

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.”

Theo điểm e, khoản 2, Điều 139 thì bạn đó có thể phải chịu khung hình phạt cao nhất lên đến bảy năm tù và bạn đó phải hoàn trả lại cho bạn số tiền trúng vé số mà bạn đó đã lĩnh.

Bạn có thể tham khảo thêm một số bài viết có liên quan khác của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam:

– Không trả nợ có phải hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản?

– Tố giác hành vi lừa đảo và lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

– Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự

Hy vọng rằng sự tư vấn của chúng tôi sẽ giúp bạn lựa chọn phương án thích hợp nhất để giải quyết những vướng mắc của bạn. Nếu còn bất cứ thắc mắc gì liên quan đến sự việc bạn có thể liên hệ Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7 của Luật sư: 19006568 để được giải đáp.

——————————————————–

THAM KHẢO CÁC DỊCH VỤ CÓ LIÊN QUAN CỦA Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam:

– Tư vấn luật hình sự miễn phí

– Tổng đài tư vấn luật miễn phí 024.6294.9155

– Tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoại

Trên đây là câu trả lời của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam liên quan đến yêu cầu câu hỏi của bạn. Hy vọng câu trả lời của chúng tôi sẽ hữu ích cho bạn.

Nếu có bất cứ vướng mắc gì về pháp lý mời bạn tiếp tục đặt câu hỏi. Chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp.

Trân trọng cảm ơn.

BBT. Hệ Thống Pháp Luật Việt nam

Lưu ý: Nội dung tư vấn của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam trên đây chỉ mang tính tham khảo. Tùy vào từng thời điểm và đối tượng khác nhau mà nội dung tư vấn trên có thể sẽ không còn phù hợp do sự thay đổi của chính sách hay quy định mới của pháp luật.