Giao cấu với vợ chưa đủ 16 tuổi có bị xử lý hình sự?
Ngày gửi: 07/08/2015 lúc 23:02:24
Câu hỏi:
Câu trả lời tham khảo:
Hệ thống pháp luật Việt Nam (hethongphapluat.com) xin chân thành cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến chúng tôi. Sau khi nghiên cứu, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi xin đưa ra câu trả lời có tính chất tham khảo như sau:
Theo như bạn trình bày, bạn của bạn khi lấy vợi là 27 tuổi, người vợ chưa đủ 16 tuổi và sinh con khi vợ cũng chưa đủ 16 tuổi, đứa con năm nay đã 5 tuổi. Như vậy, tại thời điểm hai người này quan hệ, người vợ chưa đủ 16 tuổi, thì bạn của bạn sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự Tội giao cấu với trẻ em theo quy định Điều 115 Bộ luật hình sự 1999 như sau:
“Điều 115. Tội giao cấu với trẻ em
1. Người nào đã thành niên mà giao cấu với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:
a) Phạm tội nhiều lần;
c) Có tính chất loạn luân;
d) Làm nạn nhân có thai;
đ) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên;
b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội.”
Cấu thành tội giao cấu với trẻ em như sau:
Khách thể: hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích của trẻ em được Nhà nước và pháp luật bảo vệ.
Mặt chủ quan: người thực hiện hành vi với lỗi cố ý hoặc vô ý.
Mặt khách quan: người phạm tội thực hiện hành vi giao cấu thuận tình với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi và đã làm cho nạn nhân có thai.
Như vậy, bạn của bạn sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm d) Khoản 2 Điều 115 Bộ luật hình sự 1999, khung hình phạt tù từ ba năm đến mười năm.
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự 1999, khung hình phạt tù cao nhất là 10 năm thì đây là tội phạm rất nghiêm trọng.
Thủ tục ly hôn với chồng ngoại tình, cờ bạc, đánh đập vợ conĐiều 23 Bộ luật hình sự 1999 quy định Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự như sau:
"1. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
2. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau:
a) Năm năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng;
b) Mười năm đối với các tội phạm nghiêm trọng;
c) Mười lăm năm đối với các tội phạm rất nghiêm trọng;
d) Hai mươi năm đối với các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
3. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày tội phạm được thực hiện. Nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này người phạm tội lại phạm tội mới mà Bộ luật quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên một năm tù, thì thời gian đã qua không được tính và thời hiệu đối với tội cũ được tính lại kể từ ngày phạm tội mới.
Nếu trong thời hạn nói trên, người phạm tội cố tình trốn tránh và đã có lệnh truy nã, thì thời gian trốn tránh không được tính và thời hiệu tính lại kể từ khi người đó ra tự thú hoặc bị bắt giữ."
Tính đến nay vẫn còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bạn của bạn.
Trên đây là câu trả lời của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam liên quan đến yêu cầu câu hỏi của bạn. Hy vọng câu trả lời của chúng tôi sẽ hữu ích cho bạn.
Nếu có bất cứ vướng mắc gì về pháp lý mời bạn tiếp tục đặt câu hỏi. Chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp.
Trân trọng cảm ơn.
BBT. Hệ Thống Pháp Luật Việt nam