Hỏi về tài sản riêng của vợ, chồng và giải quyết tài sản riêng của vợ, chồng khi ly hôn

Ngày gửi: 12/02/2018 lúc 23:02:24

Mã số: HTPL35308

Câu hỏi:

Vào ngày 4 tháng 9 năm 2012, tôi và chồng tôi có kí hợp đồng tặng cho nhà ở, giờ chồng tôi muốn ly hôn thì căn nhà đó có phải tài sản chung không?

Câu trả lời tham khảo:

Hệ thống pháp luật Việt Nam (hethongphapluat.com) xin chân thành cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến chúng tôi. Sau khi nghiên cứu, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi xin đưa ra câu trả lời có tính chất tham khảo như sau:

Thứ nhất, về hợp đồng tặng cho tài sản, Bộ luật Dân sự 2005 đã quy định:

Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, còn bên được tặng cho đồng ý nhận.

Tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng kí (nếu pháp luật quy định bất động sản đó phải đăng kí quyền sở hữu). Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng kí. (Điều 465, 467)

Luật Đất đai năm 2003 quy định như sau:

"a) Hồ sơ thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất nộp tại văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất; trường hợp hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất tại nông thôn thì nộp tại Uỷ ban nhân dân xã nơi có đất để chuyển cho văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất;

b) …

Hồ sơ tặng cho quyền sử dụng đất gồm văn bản cam kết tặng cho hoặc hợp đồng tặng cho hoặc quyết định của tổ chức tặng cho quyền sử dụng đất và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Văn bản cam kết tặng cho hoặc hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài phải có chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất hoặc chứng nhận của công chứng nhà nước”. (Khoản 1 điều 129)

Trong trường hợp của chị, giữa chị và chồng chị đã có hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản trên đất, hợp đồng đã được công chứng và chị đã thực hiện thủ tục đăng kí đúng theo quy định của pháp luật, do vậy việc tặng cho đó có giá trị pháp lý, mảnh đất và ngôi nhà đó được xác định là tài sản riêng của chị.

Thứ hai, về tài sản riêng của vợ, chồng và nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn được Luật Hôn nhân gia đình năm 2000 quy định như sau:

Vợ, chồng có quyền có tài sản riêng. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kì hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng; đồ dùng, tư trang cá nhân. (điều 32)

Việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó. (điều 95)

Do vậy, khi giải quyết đơn xin ly hôn của chồng chị, mảnh đất và ngôi nhà trên sẽ được xác định là tài sản riêng của chị, khi ly hôn vẫn thuộc quyền sở hữu của chị không được phân chia.

Thứ ba, về nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, Điều 58 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 sửa đổi, bổ sung 2011 có quy định:

Khi tham gia tố tụng, đương sự có quyền và nghĩa vụ

Cung cấp tài liệu, chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình

Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho Tòa án.

>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 024.6294.9155

Do vậy, chồng chị (nguyên đơn trong vụ án ly hôn) có quyền yêu cầu chị (bị đơn trong vụ án ly hôn) cung cấp các giấy tờ nhà đất để giao nộp cho Tòa án, làm căn cứ để Tòa án xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng. Tuy nhiên, Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền trên đất cũng như Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền trên đất là chứng cứ rất quan trọng để chứng minh mảnh đất và ngôi nhà là tài sản riêng của chị, nếu chị đưa toàn bộ giấy tờ trên cho người chồng sẽ không đảm bảo được anh ta có trả lại hay không. Nếu anh ta cố tình cầm giữ không trả lại cho chị thì chị sẽ không thể thực hiện được các giao dịch như bán, cho thuê, tặng cho, để thừa kế mảnh đất và ngôi nhà trên do không có giấy tờ chứng minh chủ sở hữu, mà theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự hiện nay, các giấy tờ đó không được coi là tài sản cũng không được coi là giấy tờ có giá để kiện đòi tài sản, Văn phòng đăng kí quyền sử dụng đất cũng không cấp lại cho chị các giấy tờ trên vì lý do bị người khác chiếm giữ. Mặt khác, nếu chị không đưa các giấy tờ trên cho người chồng thì cũng không có chế tài (biện pháp xử lý) nào đối với hành vi của chị.

Chính vì vậy, chị không nên đưa các giấy tờ trên cho người chồng, mà nên giao nộp trực tiếp cho Tòa án, việc này chị có thể chủ động thực hiện hoặc thực hiện sau khi có yêu cầu giao nộp chứng cứ của Tòa án, chị lưu ý là việc giao nộp này phải được lập biên bản, trong đó ghi rõ tên gọi, hình thức, nội dung, đặc điểm của chứng cứ; số bản, số trang của chứng cứ và thời gian nhận; biên bản lập thành hai bản, một bản lưu vào hồ sơ vụ việc và một bản giao cho chị giữ (điều 84 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2004 sửa đổi, bổ sung 2011).

Hy vọng rằng sự tư vấn của chúng tôi sẽ giúp bạn lựa chọn phương án thích hợp nhất để giải quyết những vướng mắc của bạn. Nếu còn bất cứ thắc mắc gì liên quan đến sự việc bạn có thể liên hệ Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7 của Luật sư: 024.6294.9155 để được giải đáp.

Chuyên viên tư vấn: Nguyễn Phương Hằng

Trên đây là câu trả lời của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam liên quan đến yêu cầu câu hỏi của bạn. Hy vọng câu trả lời của chúng tôi sẽ hữu ích cho bạn.

Nếu có bất cứ vướng mắc gì về pháp lý mời bạn tiếp tục đặt câu hỏi. Chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp.

Trân trọng cảm ơn.

BBT. Hệ Thống Pháp Luật Việt nam

Lưu ý: Nội dung tư vấn của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam trên đây chỉ mang tính tham khảo. Tùy vào từng thời điểm và đối tượng khác nhau mà nội dung tư vấn trên có thể sẽ không còn phù hợp do sự thay đổi của chính sách hay quy định mới của pháp luật.