Hỏi về việc bồi thường chi phí đào tạo

Ngày gửi: 12/02/2018 lúc 23:02:24

Mã số: HTPL36737

Câu hỏi:

Chào luật sư! Tôi có một vấn đề muốn nhờ luật sư tư vấn giúp tôi như sau: Tháng 7/2014, tôi có phỏng vấn tại công ty A. Sau đó công ty nhận tôi (không có hợp đồng) và cho tôi đi đào tạo một lớp tiếng Nhật thời gian là 3 tháng. Công ty yêu cầu tôi viết cam kết sau khóa đào tạo 3 tháng này tôi sẽ làm việc tại công ty ở vị trí mà công ty bố trí (không ghi thời gian phải làm việc tại công ty sau đào tạo là bao lâu và phí bồi thường là bao nhiêu). Tuy nhiên, sau khóa đào tạo công ty không bố trí công việc cho tôi mà cho đi học tiếp 3 tháng nữa (không ký cam kết). Trong thời gian này, tôi có làm part-time tư vấn viên tại công ty A 10 ngày. Sau khi kết thúc 3 tháng khóa học thứ 2, khoảng nửa tháng sau, công ty thông báo ký hợp đồng thử việc 2 tháng từ ngày 28/1/2015 đến ngày 28/3/2015 ở vị trí nhân viên kinh doanh. Trong hợp đồng thử việc có nêu, sau khi tham gia các khóa đào tạo phải cam kết làm việc lâu dài tại công ty, nếu không tiếp tục hợp tác với công ty thì sẽ phải bồi thường 100% chi phí đào tạo.(không nêu cụ thể mức bồi thường và khóa đào tạo gì). Sau khi kết thúc Hợp đồng thử việc, công ty cho ký hợp đồng chính thức thời hạn 1 năm, vị trí nhân viên kinh doanh. Trong hợp đồng có điều khoản là, 'sau khi tham gia các khóa đào tạo phải làm việc cho công ty 2 năm, nếu xin nghỉ trước thời hạn thì nhân viên sẽ phải bồi thường toàn bộ chi phí đào tạo' (không nêu cụ thể mức bồi thường và khóa đào tạo gì). Hiện tại tôi đang tham gia khóa đào tạo tiếng Nhật thứ 3 (không có cam kết). Cả 3 khóa đào tạo tôi tham gia là đều học ghép với học sinh bên ngoài (công ty tôi đào tạo tiếng Nhật). Cả 3 khóa đều không có hợp đồng đào tạo mà chỉ có cam kết khi học khóa đầu tiên. Nếu trong trường hợp tôi xin nghỉ trước thời hạn mà không báo trước 30 ngày thì tôi có phải bồi thường chi phí đào tạo không? Ngoài chi phí đào tạo thì còn phải bồi thường những chi phí khác nào nữa ? Nếu tôi xin nghỉ trước thời hạn mà tôi có báo trước 30 ngày thì sẽ phải nộp phạt như thế nào? Mong luật sư tư vấn giúp tôi! Tôi xin cảm ơn!

Câu trả lời tham khảo:

Hệ thống pháp luật Việt Nam (hethongphapluat.com) xin chân thành cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến chúng tôi. Sau khi nghiên cứu, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi xin đưa ra câu trả lời có tính chất tham khảo như sau:

Điều 62 Bộ luật lao động năm 2012 quy định về Hợp đồng đào tạo nghề giữa người sử dụng lao động, người lao động và chi phí đào tạo nghề như sau:

"1. Hai bên phải ký kết hợp đồng đào tạo nghề trong trường hợp người lao động được đào tạo, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề, đào tạo lại ở trong nước hoặc nước ngoài từ kinh phí của người sử dụng lao động, kể cả kinh phí do đối tác tài trợ cho người sử dụng lao động.

2. Hợp đồng đào tạo nghề phải có các nội dung chủ yếu sau đây:

a) Nghề đào tạo;

b) Địa điểm đào tạo, thời hạn đào tạo;

c) Chi phí đào tạo;

d) Thời hạn người lao động cam kết phải làm việc cho người sử dụng lao động sau khi được đào tạo;

đ) Trách nhiệm hoàn trả chi phí đào tạo;

e) Trách nhiệm của người sử dụng lao động.

Như vậy, theo thông tin mà bạn cung cấp, giữa bạn và phía công ty chỉ giao kết với nhau một hợp đồng lao động là 1 năm mà không ký một hợp đồng đào tạo nào. Do vậy, căn cứ theo quy định trên thì bạn sẽ không phải bồi thường chi phí đào tạo khi chấm dứt hợp đồng lao động. Chỉ trong trường hợp, giữa bạn và bên công ty giao kết với nhau một hợp đồng đào tạo thì bạn phải có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ cam kết trong hợp đồng đào tạo đó. Nếu công ty cử bạn đi đào tạo mà không giao kết hợp đồng đào tạo thì bạn cũng không phải bồi thường chi phí đào tạo.

Việc có bồi thường chi phí đào tạo hay không thì cần phải xét đến việc là bạn đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động có đúng pháp luật hay không?

Theo Điều 37 Bộ luật Lao động 2012 quy định Các trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động như sau:

"1. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn trong những trường hợp sau đây:

a) Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động;

b) Không được trả lương đầy đủ hoặc trả lương không đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động;

c) Bị ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động;

Xin nghỉ việc có phải bồi thường chi phí đào tạo không?

d) Bản thân hoặc gia đình có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động;

đ) Được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở cơ quan dân cử hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước;

e) Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền;

g) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 90 ngày liên tục đối với người làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và một phần tư thời hạn hợp đồng đối với người làm việc theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa được hồi phục.

2. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại khoản 1 Điều này, người lao động phải báo cho người sử dụng lao động biết trước:

a) Ít nhất 3 ngày làm việc đối với các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và g khoản 1 Điều này;

b) Ít nhất 30 ngày nếu là hợp đồng lao động xác định thời hạn; ít nhất 03 ngày làm việc nếu là hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng đối với các trường hợp quy định tại điểm d và điểm đ khoản 1 Điều này;

c) Đối với trường hợp quy định tại điểm e khoản 1 Điều này, thời hạn báo trước cho người sử dụng lao động được thực hiện theo thời hạn quy định tại Điều 156 của Bộ luật này.

Hợp đồng đào tạo nghề và chi phí đào tạo nghề

3. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, nhưng phải báo cho người sử dụng lao động biết trước ít nhất 45 ngày, trừ trường hợp quy định tại Điều 156 của Bộ luật này".

Điều 43. Nghĩa vụ của người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.

"1. Không được trợ cấp thôi việc và phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.

2. Nếu vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người sử dụng lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước.

3. Phải hoàn trả chi phí đào tạo cho người sử dụng lao động theo quy định tại Điều 62 của Bộ luật này".

Với quy định nêu trên, nếu bạn đơn phương chấm dứt hợp đồng không đúng quy định theo Điều 37  Bộ luật lao động 2012 và nếu vi phạm thời hạn báo trước thì bạn có nghĩa vụ phải bồi thường cho người sử dụng lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương những ngày không báo trước và phải hoàn trả chi phí đào tạo theo quy định tại Điều 62 Bộ luật lao động.

Theo thông tin bạn cung cấp, bạn ký kết hợp đồng lao động không xác định thời hạn do đó theo khoản 3 điều 37 của Bộ luật lao động năm 2012 về : Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động có quy định rõ: “Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, nhưng phải báo cho người sử dụng lao động biết trước ít nhất 45 ngày, trừ trường hợp quy định tại Điều 156 của Bộ luật này”.  

Trường hợp 1: Nếu bạn  thực hiện thủ tục nghỉ việc, có đơn xin nghỉ việc và trong đó có báo trước cho người sử dụng lao động biết về việc bạn nghỉ việc ít nhất 45 ngày trước khi nghỉ việc như luật định thì việc chấm dứt hợp đồng của bạn được xem là đơn phương chấm dứt hợp đồng đúng pháp luật. Do đó, bạn không phải bồi thường chi phí đào tạo như đã cam kết. 

Trường hợp 2: Nếu bạn báo cho người sử dụng lao động biết và tự ý nghỉ việc khi chưa đủ 45 ngày thì  thuộc trường hợp đơn phương chấm dứt lao động trái pháp luật. Mà theo quy định tại Điều 43 Bộ luật lao động đã quy định:

Điều 43: Nghĩa vụ của người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật:

1. Không được trợ cấp thôi việc và phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.

2. Nếu vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người sử dụng lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước.

3. Phải hoàn trả chi phí đào tạo cho người sử dụng lao động theo quy định tại Điều 62 của Bộ luật này".

Như vậy nếu bạn vi phạm vào thời gian báo trước khi đơn phương chấm dứt hợp đồng thì bạn sẽ phải chịu trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ như theo quy định Điều 43 nói trên. 

Khoản 3 Điều 62 Bộ luật Lao động 2012 quy định: “3. Chi phí đào tạo bao gồm các khoản chi có chứng từ hợp lệ về chi phí trả cho người dạy, tài liệu học tập, trường, lớp, máy, thiết bị, vật liệu thực hành, các chi phí khác hỗ trợ cho người học và tiền lương, tiền đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người học trong thời gian đi học. Trường hợp người lao động được gửi đi đào tạo ở nước ngoài thì chi phí đào tạo còn bao gồm chi phí đi lại, chi phí sinh hoạt trong thời gian ở nước ngoài”.

>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 024.6294.9155

Như vậy, người lao động chỉ phải bồi thường chi phí đào tạo khi đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật. Trong trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng đúng pháp luật thì không phải bồi thường chi phí đào tạo.

Hy vọng rằng sự tư vấn của chúng tôi sẽ giúp bạn lựa chọn phương án thích hợp nhất để giải quyết những vướng mắc của bạn. Nếu còn bất cứ thắc mắc gì liên quan đến sự việc bạn có thể liên hệ Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7 của Luật sư: 024.6294.9155 để được giải đáp.

Chuyên viên tư vấn: Nguyễn Thanh Hương

Trên đây là câu trả lời của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam liên quan đến yêu cầu câu hỏi của bạn. Hy vọng câu trả lời của chúng tôi sẽ hữu ích cho bạn.

Nếu có bất cứ vướng mắc gì về pháp lý mời bạn tiếp tục đặt câu hỏi. Chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp.

Trân trọng cảm ơn.

BBT. Hệ Thống Pháp Luật Việt nam

Lưu ý: Nội dung tư vấn của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam trên đây chỉ mang tính tham khảo. Tùy vào từng thời điểm và đối tượng khác nhau mà nội dung tư vấn trên có thể sẽ không còn phù hợp do sự thay đổi của chính sách hay quy định mới của pháp luật.