Khấu trừ thuế theo mức 10% trên thu nhập trước khi trả cho cá nhân

Ngày gửi: 07/08/2015 lúc 23:02:24

Mã số: HTPL39345

Câu hỏi:

Thưa anh/chị, Công ty em đang áp dụng khấu trừ 10% thuế (cho thu nhập vượt quá 2 triệu của tháng lương cuối cùng) đối với NLĐ nộp đơn nghỉ việc. Em muốn hỏi việc áp dụng như này có đúng luật không? Trường hợp của em, NLĐ ký hợp đồng xác định thời hạn 3 năm. Theo đó, em nộp đơn xin nghỉ việc báo trước 30 ngày để kết thúc hợp đồng vào ngày 05/04/2017. Hằng tháng, công ty em chốt lương đến hết ngày 25 và trả lương vào ngày 03. Như vậy, tiền lương trong khoảng thời gian từ 26/03/2017 ~ 05/04/2017 và tiền phép trong suốt quá trình em làm việc tại Công ty sẽ bị khấu trừ Thuế thu nhập 10% ạ? (Tổng tiền lương và phép của em chắc chắn vượt quá mức 2 triệu). Em có thắc mắc về phía công ty thì nhận được phản hồi như sau: 'Theo điểm i, điều 25 TT 111: i) Khấu trừ thuế đối với một số trường hợp khác Các tổ chức, cá nhân trả tiền công, tiền thù lao, tiền chi khác cho cá nhân cư trú không ký hợp đồng lao động (theo hướng dẫn tại điểm c, d, khoản 2, Điều 2 Thông tư này) hoặc ký hợp đồng lao động dưới ba (03) tháng có tổng mức trả thu nhập từ hai triệu (2.000.000) đồng/lần trở lên thì phải khấu trừ thuế theo mức 10% trên thu nhập trước khi trả cho cá nhân. – Từ tháng 10/2016 , NVI bắt đầu thực hiện khấu trừ 10% cho những đối tượng nghỉ việc, bởi vì căn cứ quy định tại thông tư 111 nói trên; và: – Yêu cầu của thông tư được hiểu là: Từ thời điểm họ (những đối tượng nghỉ việc) nhận được quyết định nghỉ việc thì họ đã ko còn là người lao động của công ty nữa, họ chính là đối tượng không ký HĐ lao động với công ty (mà điểm I, điều 25 TT111 nói trên đề cập). – Công ty mình trả tiền lương cho họ, thay họ đi quyết toán thuế hàng tháng, hàng năm theo cam kết và ủy quyền của bản thân NLĐ; nếu công ty không thực hiện khấu trừ thuế tại nguồn đối với các trường hợp này (cá nhân cư trú không ký hợp đồng lao động ); thì Công ty phải tự bỏ tiền ra để trả 10% này thay cho họ.' => Cách hiểu và áp dụng khấu trừ của công ty đối với trường hợp của em có là đúng luật không??? Em xin chân thành cảm ơn tổ tư vấn và mong sớm nhận được hồi âm từ phía anh/chị. Chúc văn phòng luật của mình ngày càng phát triển.

Câu trả lời tham khảo:

Hệ thống pháp luật Việt Nam (hethongphapluat.com) xin chân thành cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến chúng tôi. Sau khi nghiên cứu, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi xin đưa ra câu trả lời có tính chất tham khảo như sau:

Theo quy định tại Điều 96 Bộ luật lao động 2012 thì nguyên tắc trả lương cho người lao động là:

“Điều 96. Nguyên tắc trả lương

Người lao động được trả lương trực tiếp, đầy đủ và đúng thời hạn.

Trường hợp đặc biệt không thể trả lương đúng thời hạn thì không được chậm quá 01 tháng và người sử dụng lao động phải trả thêm cho người lao động một khoản tiền ít nhất bằng lãi suất huy động tiền gửi do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm trả lương.”

Theo đó sử dụng lao động phải trả lương đầy đủ cho người lao động mà không thể trả thiếu lương cho người lao động vì bất cứ lý do gì. Nên công ty bạn không có quyền khấu trừ 10% thuế cho thu thu nhập của tháng lương cuối cùng của bạn.

“i) Khấu trừ thuế đối với một số trường hợp khác

Các tổ chức, cá nhân trả tiền công, tiền thù lao, tiền chi khác cho cá nhân cư trú không ký hợp đồng lao động (theo hướng dẫn tại điểm c, d, khoản 2, Điều 2 Thông tư này) hoặc ký hợp đồng lao động dưới ba (03) tháng có tổng mức trả thu nhập từ hai triệu (2.000.000) đồng/lần trở lên thì phải khấu trừ thuế theo mức 10% trên thu nhập trước khi trả cho cá nhân.

Trường hợp cá nhân chỉ có duy nhất thu nhập thuộc đối tượng phải khấu trừ thuế theo tỷ lệ nêu trên nhưng ước tính tổng mức thu nhập chịu thuế của cá nhân sau khi trừ gia cảnh chưa đến mức phải nộp thuế thì cá nhân có thu nhập làm cam kết (theo mẫu ban hành kèm theo văn bản hướng dẫn về quản lý thuế) gửi tổ chức trả thu nhập để tổ chức trả thu nhập làm căn cứ tạm thời chưa khấu trừ thuế thu nhập cá nhân.

Căn cứ vào cam kết của người nhận thu nhập, tổ chức trả thu nhập không khấu trừ thuế. Kết thúc năm tính thuế, tổ chức trả thu nhập vẫn phải tổng hợp danh sách và thu nhập của những cá nhân chưa đến mức khấu trừ thuế (vào mẫu ban hành kèm theo văn bản hướng dẫn về quản lý thuế) và nộp cho cơ quan thuế. Cá nhân làm cam kết phải chịu trách nhiệm về bản cam kết của mình, trường hợp phát hiện có sự gian lận sẽ bị xử lý theo quy định của Luật quản lý thuế.

Cá nhân làm cam kết theo hướng dẫn tại điểm này phải đăng ký thuế và có mã số thuế tại thời điểm cam kết.”

Theo quy định trên, trường hợp được quy định tại điểm c, d khoản 2 Điều 2 Thông tư 111/2013/TT-BTC không ký hợp đồng lao động có tổng mức trả thu nhập từ hai triệu đồng/lần trở lên thì phải khấu trừ thuế theo mức 10% trên thu nhập trước khi trả cho cá nhân.

Theo quy định tại điểm c, d khoản 2 Điều 2 Thông tư 111/2013/TT-BTC quy định như sau:

d) Tiền nhận được từ tham gia hiệp hội kinh doanh, hội đồng quản trị doanh nghiệp, ban kiểm soát doanh nghiệp, ban quản lý dự án, hội đồng quản lý, các hiệp hội, hội nghề nghiệp và các tổ chức khác.”

Theo đó, nếu bạn không thuộc trường hợp được quy định tại điểm c, d khoản 2 Điều 2 Thông tư 111/2013/TT-BTC thì công ty bạn không được khấu trừ thuế theo mức 10% trên thu nhập trước khi trả cho bạn.

Theo trình bày của bạn thì bạn và công ty đã ký hợp đồng xác định thời hạn 3 năm và hiện nay bạn đã nộp đơn xin nghỉ việc báo trước 30 ngày  để kết thúc hợp đồng vào ngày 05/04/2017 nên có thể hiểu ngày 05/04/2017 bạn mới kết thúc hợp đồng lao động với công ty. Khi kết thúc hợp đồng lao động, bạn được nhận lương tháng cuối cùng tại công ty thì đó cũng là lương bạn được nhận theo hợp đồng lao động. 

Trên đây là câu trả lời của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam liên quan đến yêu cầu câu hỏi của bạn. Hy vọng câu trả lời của chúng tôi sẽ hữu ích cho bạn.

Nếu có bất cứ vướng mắc gì về pháp lý mời bạn tiếp tục đặt câu hỏi. Chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp.

Trân trọng cảm ơn.

BBT. Hệ Thống Pháp Luật Việt nam

Lưu ý: Nội dung tư vấn của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam trên đây chỉ mang tính tham khảo. Tùy vào từng thời điểm và đối tượng khác nhau mà nội dung tư vấn trên có thể sẽ không còn phù hợp do sự thay đổi của chính sách hay quy định mới của pháp luật.