Làm giả hồ sơ thương binh xử lý như thế nào?

Ngày gửi: 12/02/2018 lúc 23:02:24

Mã số: HTPL41371

Câu hỏi:

Ông A trước đây từng tham gia kháng chiến và ông bị thương, được đưa đi điều trị. Khi trở về, ông vẫn chưa được hưởng chế độ gì. Năm 2013, ông hoàn thiện các thủ tục theo hướng dẫn để hưởng chế độ thương binh. Và việc lập hồ sơ, cấp giấy chứng nhận bị thương, giới thiệu đến Hội đồng giám định y khoa để xác định tỷ lệ thương tật và ra quyết định hưởng chế độ đối với quân nhân bị thương đều thuộc thẩm quyền của cơ quan quân đội. Thời gian sau đó ông A chính thức được hưởng các chế độ thương binh do Nhà nước cấp. Thế nhưng, sau hơn năm được hưởng chế độ, ông bị phát hiện là làm giả hồ sơ để được hưởng chế độ. Tòa án đã khởi tố ông A về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 139 Bộ luật Hình sự. Như vậy, đối với trường hợp trên đây, nếu áp dụng theo khoản 1 – Điều 139 thì có đúng không? Như trường hợp của ông A thì ở đây là ông A lừa đảo chiếm đoạt tài sản của 'Nhà nước' thì 'Nhà nước' trong trường hợp này có được coi là 'người khác' hay không?

Câu trả lời tham khảo:

Hệ thống pháp luật Việt Nam (hethongphapluat.com) xin chân thành cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến chúng tôi. Sau khi nghiên cứu, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi xin đưa ra câu trả lời có tính chất tham khảo như sau:

Trong trường hợp này Tòa án khởi tố như vậy là chưa đúng vì theo quy định tại Điều 139 Bộ luật Hình sự  thì:

Điều 139. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 

1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Tái phạm nguy hiểm;

d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

g) Gây hậu quả nghiêm trọng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.”

>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 024.6294.9155

Cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được hiểu như sau:

Khách thể của tội phạm là quan hệ sở hữu, nếu sau khi chiếm đoạt tài sản, người phạm tội bị đuổi bắt có hành vi chống trả để tẩu thoát gây chết hoặc làm bị thương người khác thì có thể bị truy cứu thêm trách nhiệm hình sự về tội khác.

Như vậy trong tình huống này thì ông A đã làm giả hồ sơ thương binh để được hưởng chế độ của Nhà nước nhưng không đủ yếu tố để khởi tố theo điều 139, Bộ luật hình sự 1999. 

Hành vi của ông A có thể bị khởi tố theo điều sau:

"Điều 267. Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức 

1. Người nào làm giả con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan, tổ chức hoặc sử dụng con dấu, tài liệu, giấy tờ đó nhằm lừa dối cơ quan, tổ chức hoặc công dân, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến năm năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội nhiều lần;
c) Gây hậu quả nghiêm trọng;
d) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ bốn năm đến bảy năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng."
Như vậy ông A đã có hành vi sử dụng giấy tờ giả nhằm lừa dối cơ quan tổ chức nên sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điều 267, Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009. Ông A sẽ bị truy thu toàn bộ số tiền đã được lĩnh trong hơn một năm qua đồng thời có thể bị phạt tiền đến 50 triệu đồng hoặc phạt tù từ sáu tháng đến 3 năm.

Bạn có thể tham khảo thêm một số bài viết có liên quan khác của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam:

– Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự

– Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009

– Xử lý hành vi lợi dụng tình cảm để lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Hy vọng rằng sự tư vấn của chúng tôi sẽ giúp bạn lựa chọn phương án thích hợp nhất để giải quyết những vướng mắc của bạn. Nếu còn bất cứ thắc mắc gì liên quan đến sự việc bạn có thể liên hệ Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7 của Luật sư: 024.6294.9155  để được giải đáp.

THAM KHẢO CÁC DỊCH VỤ CÓ LIÊN QUAN CỦA Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam:

– Tư vấn luật hình sự miễn phí

– Tổng đài tư vấn luật miễn phí 024.6294.9155

– Tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoại

Trên đây là câu trả lời của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam liên quan đến yêu cầu câu hỏi của bạn. Hy vọng câu trả lời của chúng tôi sẽ hữu ích cho bạn.

Nếu có bất cứ vướng mắc gì về pháp lý mời bạn tiếp tục đặt câu hỏi. Chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp.

Trân trọng cảm ơn.

BBT. Hệ Thống Pháp Luật Việt nam

Lưu ý: Nội dung tư vấn của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam trên đây chỉ mang tính tham khảo. Tùy vào từng thời điểm và đối tượng khác nhau mà nội dung tư vấn trên có thể sẽ không còn phù hợp do sự thay đổi của chính sách hay quy định mới của pháp luật.