Quy định của pháp luật về bộ chỉ thị môi trường

Ngày gửi: 07/08/2015 lúc 23:02:24

Mã số: HTPL27210

Câu hỏi:

Quy định của pháp luật về bộ chỉ thị môi trường. Quy định về bộ chỉ thị môi trường quốc gia đối với môi trường không khí.

Câu trả lời tham khảo:

Hệ thống pháp luật Việt Nam (hethongphapluat.com) xin chân thành cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến chúng tôi. Sau khi nghiên cứu, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi xin đưa ra câu trả lời có tính chất tham khảo như sau:

o_thetext=

Căn cứ Khoản 3 Điều 3 Thông tư số 43/2015/TT-BTNMT, bộ chỉ thị môi trường là tập hợp các chỉ thị môi trường, bao gồm các thông số cơ bản phản ánh các yếu tố đặc trưng của môi trường phục vụ mục đích đánh giá, theo dõi diễn biến chất lượng môi trường, lập báo cáo hiện trạng môi trường. Chính vì vậy, bộ chỉ thị môi trường được coi là công cụ quan trọng đối với việc hỗ trợ công tác quản lý môi trường, nghiên cứu môi trường.

Hiện nay, pháp luật Việt Nam quy định về bộ chỉ thị môi trường tại Thông tư số 43/2015/TT-BTNMT. Theo đó, bộ chỉ thị môi trường gồm 2 loại:

– Bộ chỉ thị môi trường quốc gia: gồm 36 chỉ thị môi trường, 93 chỉ thị thứ cấp được phân thành 05 nhóm, gồm: nhóm chỉ thị động lực, nhóm chỉ thị sức ép, nhóm chỉ thị hiện trạng, nhóm chỉ thị tác động và nhóm chỉ thị đáp ứng.

– Bộ chỉ thị môi trường địa phương: do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng, ban hành trên cơ sở bộ chỉ thị môi trường quốc gia.

Về việc xây dựng bộ chỉ thị môi trường, theo Điều 15 Thông tư 43, bộ chỉ thị môi trường quốc gia sẽ do Tổng cục môi trường giúp Bộ Tài nguyên và Môi trường xây dựng; định kì 5 năm 1 lần, Tổng cục Môi trường rà soát, trình Bộ Tài nguyên và Môi trường xem xét sửa đổi, bổ sung bộ chỉ thị môi trường quốc gia. Bộ chỉ thị môi trường địa phương do Sở Tài nguyên và Môi trường giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng, bảo đảm số lượng chỉ thị đạt tối thiểu 75% số lượng chỉ thị môi trường quốc gia và đủ 05 năm thành phần theo mô hình DPSIR. Bên cạnh đó, các cơ quan này cũng có trách nhiệm lưu trữ, thực hiện chế độ báo cáo về bộ chỉ thị môi trường theo quy định của pháp luật hiện hành.

Các cơ quan được giao quản lý bộ chỉ thị môi trường sẽ có trách nhiệm cập nhật thông tin, số liệu cho bộ chỉ thị môi trường.

>>> Luật sư tư vn pháp lut hành chính qua tổng đài: 024.6294.9155

Bộ chỉ thị môi trường quốc gia được quy định tại Phụ lục III ban hành kèm theo Thông tư 43/2015/TT-BTNMT. Đây là bộ chỉ thị môi trường tổng hợp, bao gồm tất cả các thành phần môi trường tuân theo mô hình động lực – áp lực – hiện trạng – tác động – đáp ứng (mô hình DPSIR). Danh sách bộ này đã được điều chỉnh, bổ sung so với 3 bộ chỉ thị môi trường đã được ban hành tại Thông tư số 10/2009/TT-BTNMT.  

Như vậy, có thể thấy rằng, pháp luật hiện nay đã có những quy định khá chi tiết về bộ chỉ thị môi trường, tạo thuận lợi cho việc theo dõi, đánh giá diễn biến chất lượng môi trường; đánh giá tình hình thực hiện các chỉ tiêu môi trường trong Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội quốc gia và địa phương, phục vụ công tác lập báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia và địa phương. o_thetext=

Căn cứ Khoản 3 Điều 3 Thông tư số 43/2015/TT-BTNMT, bộ chỉ thị môi trường là tập hợp các chỉ thị môi trường, bao gồm các thông số cơ bản phản ánh các yếu tố đặc trưng của môi trường phục vụ mục đích đánh giá, theo dõi diễn biến chất lượng môi trường, lập báo cáo hiện trạng môi trường. Chính vì vậy, bộ chỉ thị môi trường được coi là công cụ quan trọng đối với việc hỗ trợ công tác quản lý môi trường, nghiên cứu môi trường.

Hiện nay, pháp luật Việt Nam quy định về bộ chỉ thị môi trường tại Thông tư số 43/2015/TT-BTNMT. Theo đó, bộ chỉ thị môi trường gồm 2 loại:

– Bộ chỉ thị môi trường quốc gia: gồm 36 chỉ thị môi trường, 93 chỉ thị thứ cấp được phân thành 05 nhóm, gồm: nhóm chỉ thị động lực, nhóm chỉ thị sức ép, nhóm chỉ thị hiện trạng, nhóm chỉ thị tác động và nhóm chỉ thị đáp ứng.

– Bộ chỉ thị môi trường địa phương: do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng, ban hành trên cơ sở bộ chỉ thị môi trường quốc gia.

Về việc xây dựng bộ chỉ thị môi trường, theo Điều 15 Thông tư 43, bộ chỉ thị môi trường quốc gia sẽ do Tổng cục môi trường giúp Bộ Tài nguyên và Môi trường xây dựng; định kì 5 năm 1 lần, Tổng cục Môi trường rà soát, trình Bộ Tài nguyên và Môi trường xem xét sửa đổi, bổ sung bộ chỉ thị môi trường quốc gia. Bộ chỉ thị môi trường địa phương do Sở Tài nguyên và Môi trường giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng, bảo đảm số lượng chỉ thị đạt tối thiểu 75% số lượng chỉ thị môi trường quốc gia và đủ 05 năm thành phần theo mô hình DPSIR. Bên cạnh đó, các cơ quan này cũng có trách nhiệm lưu trữ, thực hiện chế độ báo cáo về bộ chỉ thị môi trường theo quy định của pháp luật hiện hành.

Các cơ quan được giao quản lý bộ chỉ thị môi trường sẽ có trách nhiệm cập nhật thông tin, số liệu cho bộ chỉ thị môi trường.

>>> Luật sư tư vn pháp lut hành chính qua tổng đài: 024.6294.9155

Bộ chỉ thị môi trường quốc gia được quy định tại Phụ lục III ban hành kèm theo Thông tư 43/2015/TT-BTNMT. Đây là bộ chỉ thị môi trường tổng hợp, bao gồm tất cả các thành phần môi trường tuân theo mô hình động lực – áp lực – hiện trạng – tác động – đáp ứng (mô hình DPSIR). Danh sách bộ này đã được điều chỉnh, bổ sung so với 3 bộ chỉ thị môi trường đã được ban hành tại Thông tư số 10/2009/TT-BTNMT.  

Như vậy, có thể thấy rằng, pháp luật hiện nay đã có những quy định khá chi tiết về bộ chỉ thị môi trường, tạo thuận lợi cho việc theo dõi, đánh giá diễn biến chất lượng môi trường; đánh giá tình hình thực hiện các chỉ tiêu môi trường trong Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội quốc gia và địa phương, phục vụ công tác lập báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia và địa phương.

Trên đây là câu trả lời của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam liên quan đến yêu cầu câu hỏi của bạn. Hy vọng câu trả lời của chúng tôi sẽ hữu ích cho bạn.

Nếu có bất cứ vướng mắc gì về pháp lý mời bạn tiếp tục đặt câu hỏi. Chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp.

Trân trọng cảm ơn.

BBT. Hệ Thống Pháp Luật Việt nam

Lưu ý: Nội dung tư vấn của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam trên đây chỉ mang tính tham khảo. Tùy vào từng thời điểm và đối tượng khác nhau mà nội dung tư vấn trên có thể sẽ không còn phù hợp do sự thay đổi của chính sách hay quy định mới của pháp luật.