Quyền yêu cầu ly hôn – hậu quả pháp lý

Ngày gửi: 24/03/2019 lúc 11:31:12

Mã số: HTPL35569

Câu hỏi:

Cho hỏi khi người chồng không quan tâm chăm sóc cho người vợ khi người vợ đang bệnh và người chồng chửi ăn bám vậy có thể ra tòa ly hôn được không và người vợ có được không vì người chồng nói người vợ không làm là không có phần? Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau: 1. Cơ sở pháp lý: – Luật Hôn nhân và gia đình 2014; – Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP.  2.

Câu trả lời tham khảo:

Hệ thống pháp luật Việt Nam (hethongphapluat.com) xin chân thành cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến chúng tôi. Sau khi nghiên cứu, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi xin đưa ra câu trả lời có tính chất tham khảo như sau:

1. Căn cứ pháp lý

– Luật Hôn nhân và gia đình 2014;

– Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP

2. Luật sư tư vấn:

Căn cứ Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về vấn đề ly hôn như sau:

Thứ nhất, Về quyền yêu cầu và căn cứ ly hôn.

 “1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.

2. Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.

3. Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.”

Theo quy định này thì vợ hoặc chồng đều có quyền yêu cầu giải quyết ly hôn khi cuộc sống hôn nhân của một hoặc hai bên vợ chồng đang trầm trọng không thể kéo dài được thì pháp luật cho phép thuận tình hoặc đơn phương ly hôn để đảm bảo cuộc sống cho hai bên.

Nếu hai vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, khi hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, chăm sóc, cấp dưỡng cho con thì có thể nộp đơn xin thuận tình ly hôn theo Điều 55 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định về Thuận tình ly hôn.

Trường hợp hai vợ chồng không thỏa thuận được các vấn đề trên thì có quyền gửi đơn lên Tòa án yêu cầu giải quyết thủ tục ly hôn đơn phương.

Ly hôn đơn phương là việc ly hôn theo yêu cầu của một bên vợ hoặc chồng theo Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định như sau:

“1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.

2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.

3. Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia.”

Từ quy định trên có thể hiểu điều kiện về căn cứ để ly hôn đơng phương bao gồm:

Vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được,

Trong trường hợp vợ hoặc chồng người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.

Theo Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn vấn đề này như sau:

“1. Được coi là tình trạng của vợ chồng trầm trọng khi:

– Vợ, chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau như người nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người chồng muốn sống ra sao thì sống, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.

– Vợ hoặc chồng luôn có hành vi ngược đãi, hành hạ nhau, như thường xuyên đánh đập, hoặc có hành vi khác xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của nhau, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn thể nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.

– Vợ chồng không chung thuỷ với nhau như có quan hệ ngoại tình, đã được người vợ hoặc người chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, khuyên bảo nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình;”

Như vậy, với trường hợp của bạn, bạn cần phải chứng minh đời sống vợ chồng bạn không thể kéo dài được vì việc chồng bạn không quan tâm, không chăm sóc bạn lâm vào tình trạng đến mức trầm trọng như hướng dẫn trên. Đã được người thân hoặc cơ quan nhắc nhở, hòa giải nhiều lần những vẫn tiếp tục không quan tâm, chăm sóc vợ thì lúc này mới có căn cứ để nhận định đời sống chung của hai vợ chồng không thể kéo dài được và như vậy mới đáp ứng được căn cứ ly hôn đơn phương.

Thứ hai, về chia tài sản khi ly hôn.

Theo Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định về nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn như sau:

– Chia tài sàn khi ly hôn do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

– Đối với tài sản riêng được giải quyết như sau:

Tài sản riêng bao gồm tài sản mà vợ, chồng có trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định Luật Hôn nhân và gia đình 2014.

Do đó, tài sản riêng của vợ, chồng sẽ thuộc quyền sở hữu của vợ, chồng khi ly hôn.

– Chia tài sản chung được giải quyết theo nguyên tắc sau:

Thủ tục ly hôn với chồng ngoại tình, cờ bạc, đánh đập vợ con

Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi,nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập.

Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị, bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch.

Việc thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản của vợ, chồng do vợ, chồng thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

Như vậy, về nguyên tắc tài sản chung của hai vợ chồng sẽ được chia đôi. Cho dù trường hợp chồng bạn có tạo ra được nhiều tài sản hơn bạn, nhưng bù lại bạn cũng có công chăm sóc gia đình, làm công việc nội trợ. Do đó, không thể nói bạn không có phần trong khối tài sản chung được. Tuy nhiên, còn xem xét đến hoàn cảnh của mỗi bên, công sức đóng góp vào khối tài sản này để phân chia tài sản,

Trên đây là câu trả lời của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam liên quan đến yêu cầu câu hỏi của bạn. Hy vọng câu trả lời của chúng tôi sẽ hữu ích cho bạn.

Nếu có bất cứ vướng mắc gì về pháp lý mời bạn tiếp tục đặt câu hỏi. Chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp.

Trân trọng cảm ơn.

BBT. Hệ Thống Pháp Luật Việt nam

Lưu ý: Nội dung tư vấn của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam trên đây chỉ mang tính tham khảo. Tùy vào từng thời điểm và đối tượng khác nhau mà nội dung tư vấn trên có thể sẽ không còn phù hợp do sự thay đổi của chính sách hay quy định mới của pháp luật.