Thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động cá nhân của tòa án. Khiếu kiện về quyết định sa thải người lao động trái quy định pháp luật.
Ngày gửi: 20/08/2020 lúc 09:48:13
Mã số: LD36
Câu hỏi:
Tôi có kí hợp đồng lao động không thời hạn với công ty A tại thành phố Vinh (công ty này có trụ sở chính tại quận Thanh Xuân, Hà Nội). Trong thời gian làm việc tôi có được chuyển ra Hà Nội làm việc tại trụ sở chính của công ty. Ngày 15/12/2015, công ty A ra quyết định sa thải tôi với lý do tôi nghỉ quá số buổi quy định trong 1 tháng và có thái độ làm việc không hợp tác. Xin hỏi:
- Nếu không đồng ý với quyết định sa thải của công ty, tôi có thể gửi đơn ra tòa án nào để giải quyết mà không cần thông qua thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động ?
- Nếu lý do công ty sa thải tôi là hợp pháp thì khi bị sa thải tôi có được hưởng trợ cấp thôi việc không?
Câu trả lời tham khảo:
Hệ thống pháp luật Việt Nam (hethongphapluat.com) xin chân thành cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến chúng tôi. Sau khi nghiên cứu, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi xin đưa ra câu trả lời có tính chất tham khảo như sau:
- Nếu không đồng ý với quyết định sa thải của công ty, tôi có thể gửi đơn ra tòa án nào để giải quyết mà không cần thông qua thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động ?
Tranh chấp lao động là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ và lợi ích pháp sinh giữa các bên trong quan hệ lao động. Theo tính chất của chủ thể tham gia tranh chấp, pháp luật chia ra thành tranh chấp lao động cá nhân và tranh chấp lao động tập thể. Tranh chấp lao động cá nhân là tranh chấp giữa cá nhân người lao động (NLĐ) với người sử dụng lao động (NSDLĐ), còn tranh chấp lao động tập thể là tranh chấp giữa tập thể lao động với NSDLĐ. Trong trường hợp này, tranh chấp giữa bạn và công ty A là tranh chấp lao động cá nhân.
Điều 31 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 (sửa đổi 2011) và Bộ luật Lao động năm 2012 quy định tranh chấp lao động cá nhân giữa NLĐ và NSDLĐ mà hòa giải viên lao động hào giải không thành hoặc một trong hai bên không thực hiện các thỏa thuận trong biên bản hòa giải thành hoặc hết thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật mà hòa giải viên lao động không tiến hành hòa giải mới thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án.Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 1 Điều 201 Bộ luật Lao động 2012 thì tranh chấp lao động cá nhân về hình thức kỉ luật sa thải cũng thuộc thẩm quyền giải quyết dù không qua hòa giải tại cấp cơ sở.Theo quy định tại khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định thẩm quyền của tòa án theo lãnh thổ giải quyết vụ án lao động như sau:
- Tòa án nơi cư trú, làm việc của bị đơn nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động theo thủ tục sơ thẩm.
- Tào án nơi nguyên đơn cư trú, làm việc nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi nguyên đơn có trụ sở nếu nguyên đơn là cơ quan,tổ chức có thẩm quyền giải quyết tranh chấp theo thủ tục sơ thẩm trong trường hợp các đương sự đã thỏa thuận bằng văn bản lựa chọn tòa án này giải quyết.
2. Nếu lý do công ty sa thải tôi là hợp pháp thì khi bị sa thải tôi có được hưởng trợ cấp thôi việc không?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 48 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định về các trường hợp được trợ cấp thôi việc: “Khi hợp đồng lao động chấm dứt theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 5, 6, 7, 9 và 10 Điều 36 của Bộ luật này thì người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương.”
Điều 36 của Bộ luật Lao động 2012 quy địnhcác trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động:
“1. Hết hạn hợp đồng lao động, trừ trường hợp quy định tại khoản 6 Điều 192 của Bộ luật này.
2. Đã hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động.
3. Hai bên thoả thuận chấm dứt hợp đồng lao động.
4. Người lao động đủ điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm xã hội và tuổi hưởng lương hưu theo quy định tại Điều 187 của Bộ luật này.
5. Người lao động bị kết án tù giam, tử hình hoặc bị cấm làm công việc ghi trong hợp đồng lao động theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án.
6. Người lao động chết, bị Toà án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết.
7. Người sử dụng lao động là cá nhân chết, bị Toà án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết; người sử dụng lao động không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động.
8. Người lao động bị xử lý kỷ luật sa thải theo quy định tại khoản 3 Điều 125 của Bộ luật này.
9. Người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại Điều 37 của Bộ luật này.
10. Người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại Điều 38 của Bộ luật này; người sử dụng lao động cho người lao động thôi việc do thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kinh tế hoặc do sáp nhật, hợp nhất, chia tách doanh nghiệp, hợp tác xã.”
Theo quy định tại khoản 1 Điều 48 Bộ luật Lao động 2012 thì trường hợp NLĐ bị xử lí kỉ luật sa thải theo quy định tại khoản 3 Điều 125 Bộ luật Lao động 2012 sẽ không được hưởng trợ cấp thôi việc. Việc chấm dứt hợp đồng lao động bằng hình thức kỉ luật sa thải là do lỗi của NLĐ. NLĐ đã có lỗi nặng trong việc không thực hiện đúng các nghĩa vụ của mình và vì thế NLĐ sẽ không được hưởng trợ cấp thôi việc trong trường hợp này. Trong trường hợp này, công ty A chấm dứt hợp đồng lao động với bạn bằng hình thức xử lí kỉ luật lao động là sa thải theo quy định tại Điều 125 Bộ luật Lao động 2012. Lỗi trong trường hợp này thuộc về bạn vì bạn đã không thực hiện đúng các nội quy của công ty. Như vậy, khi bị sa thải, bạn sẽ không được công ty thanh toán trợ cấp thôi việc vì bạn không thuộc trường hợp được hưởng trợ cấp thôi việc quy định tại Điều 48 của Bộ luật Lao động năm 2012.
Trên đây là câu trả lời của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam liên quan đến yêu cầu câu hỏi của bạn. Hy vọng câu trả lời của chúng tôi sẽ hữu ích cho bạn.
Nếu có bất cứ vướng mắc gì về pháp lý mời bạn tiếp tục đặt câu hỏi. Chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp.
Trân trọng cảm ơn.
BBT. Hệ Thống Pháp Luật Việt nam
Lưu ý: Nội dung tư vấn của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam trên đây chỉ mang tính tham khảo. Tùy vào từng thời điểm và đối tượng khác nhau mà nội dung tư vấn trên có thể sẽ không còn phù hợp do sự thay đổi của chính sách hay quy định mới của pháp luật.