Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba

"Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba" được hiểu như sau:

Loại hình bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản của bên thứ ba, theo đó, tổ chức, cá nhân (bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình hoặc doanh nghiệp nhà nước sử dụng tài sản được giao để trả nợ thay cho bên có nghĩa vụ (bên được bảo lãnh), nếu đến hạn mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ.

Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba áp dụng trong trường hợp người có nghĩa vụ cần sự bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba. Trong quan hệ bảo đảm nghĩa vụ có bên bảo lãnh, xuất hiện hai quan hệ hợp đồng; quan hệ hợp đồng giữa bên bảo lãnh (bên thứ ba) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) và quan hệ hợp đồng giữa bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) với bên có nghĩa vụ (bên được bảo lãnh). Việc bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba được thực hiện bằng biện pháp cầm cố, thế chấp tài sản. Việc cầm cố, thế chấp để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của bên bảo lãnh được áp dụng theo các quy định của pháp luật về cầm cố, thế chấp. Văn bản ghi nhận sự thỏa thuận giữa bên nhận bảo lãnh và bên bảo lãnh gọi là hợp đồng bảo lãnh. Hợp đồng bảo lãnh có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính.

Ở Việt Nam, các quy định của pháp luật về bảo lãnh có ở Bộ luật dân sự, các văn bản pháp luật về kinh tế - thương mại, tín dụng ngân hàng.

Xem các thuật ngữ khác: