Nhận dạng
"Nhận dạng" được hiểu như sau:
Tổ chức cho một người quan sát, nhận lại đối tượng hiện tại với đối tượng mà họ đã biết trước đây trong mối quan hệ với sự kiện đang điều tra nhằm xác định xem có đồng nhất hay không.
Nhận dạng thường được tiến hành trong trường hợp cần nhận dạng người, nhận dạng tử thi, nhận dạng đồ vật, súc vật, tài liệu, địa điểm. Có thể tiến hành nhận dạng trực tiếp hoặc gián tiếp. Nhận dạng trực tiếp là cho người nhận dạng tiếp xúc trực tiếp với đối tượng nhận dạng. Nhận dạng gián tiếp là nhận dạng thông qua ảnh, băng ghi âm, qua băng video.
Việc nhận dạng phải được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật đã quy định. Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 trước đây và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 hiện nay quy định khi cần thiết Điều tra viên có thể mời người hoặc đưa vật, ảnh cho người làm chứng, người bị hại hoặc bị can nhận dạng. Điều tra viên phải hỏi trước người nhận dạng về những tình tiết, vết tích và đặc điểm mà nhờ đó họ có thể nhận dạng được.
Số người, vật hoặc ảnh đưa ra để nhận dạng ít nhất phải là ba và về bề ngoài phải tương tự giống nhau. Đối với việc nhận dạng tử thi thì không áp dụng nguyên tắc này. Trong trường hợp đặc biệt có thể cho xác nhận người qua tiếng nói.
Nếu người làm chứng hay người bị hại là người nhận dạng thì trước khi tiến hành, Điều tra viên phải giải thích cho họ biết trách nhiệm về việc từ chối, trốn tránh khai báo hoặc cố ý khai báo gian dối. Việc giải thích đó phải được ghi vào biên bản.
Trong khi tiến hành nhận dạng, Điều tra viên không được đặt câu hỏi có tính chất gợi ý. Sau khi người nhận dạng đã xác nhận một người, một vật hay một ảnh trong số được đưa ra để nhận dạng thì Điều tra viên yêu cầu họ giải thích là họ đã căn cứ vào các vết tích hoặc đặc điểm gì mà xác nhận người, vật hay ảnh đó. Việc tiến hành nhận dạng phải có mặt người chứng kiến.
Biên bản nhận dạng phải được lập theo quy định của pháp luật và cần ghi rõ nhân thân của người nhận dạng và của những người được đưa ra để nhận dạng; những đặc điểm của vật, ảnh được đưa ra để nhận dạng; các lời khai báo, trình bày của người nhận dạng.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, nhận dạng được quy định tại Điều 190 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015.