Tính tiền làm thêm giờ, trường hợp nào chủ sử dụng lao động được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động?
Ngày gửi: 25/04/2019 lúc 11:31:12
Câu hỏi:
Câu trả lời tham khảo:
Hệ thống pháp luật Việt Nam (hethongphapluat.com) xin chân thành cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến chúng tôi. Sau khi nghiên cứu, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi xin đưa ra câu trả lời có tính chất tham khảo như sau:
1. Căn cứ pháp lý
– Bộ luật lao động 2012
2. Nội dung tư vấn:
Vấn đề thứ nhất: vấn đề cách tính lương.
Căn cứ Điều 97 Bộ luật lao động 2012 quy định như sau:
“1. Người lao động làm thêm giờ được trả lương tính theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương theo công việc đang làm như sau:
a) Vào ngày thường, ít nhất bằng 150%;
b) Vào ngày nghỉ hằng tuần, ít nhất bằng 200%;
c) Vào ngày nghỉ lễ, ngày nghỉ có hưởng lương, ít nhất bằng 300% chưa kể tiền lương ngày lễ, ngày nghỉ có hưởng lương đối với người lao động hưởng lương ngày.
2. Người lao động làm việc vào ban đêm, thì được trả thêm ít nhất bằng 30% tiền lương tính theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương theo công việc của ngày làm việc bình thường.
3. Người lao động làm thêm giờ vào ban đêm thì ngoài việc trả lương theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, người lao động còn được trả thêm 20% tiền lương tính theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương theo công việc làm vào ban ngày.”
Và Điều 105 Bộ luật lao động 2012 có quy định về giờ làm việc ban đêm như sau:
Như vậy, khi người lao động làm việc từ 1h đến 9h thì mức lương tính như sau: Thời gian làm việc từ 1h-6h thì được tính mức lương làm việc vào ban đêm căn cứ tại khoản 2 Điều 97 Bộ luật lao động 2012. Thời gian làm việc từ 6h- 9h thì mức lương được tính theo đơn giá theo như công việc bình thường.
Về mức lương trong thời gian làm thêm như sau: Do người lao động làm thêm từ 17h30- 21h nên đây vẫn là khoảng thời gian làm việc ban ngày. Mức lương được hưởng là 150% đối với ngày thường và 200% đối với ngày nghỉ hàng tuần.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật tính tiền làm thêm giờ: 024.6294.9155
Vấn đề thứ hai: đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động.
Căn cứ Điều 38 Bộ luật lao động 2012 quy định như sau:
“1. Người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong những trường hợp sau đây:
a) Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động;
b) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 12 tháng liên tục đối với người làm theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, đã điều trị 06 tháng liên tục, đối với người lao động làm theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và quá nửa thời hạn hợp đồng lao động đối với người làm theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa hồi phục.
Khi sức khỏe của người lao động bình phục, thì người lao động được xem xét để tiếp tục giao kết hợp đồng lao động;
c) Do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác theo quy định của pháp luật, mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc;
d) Người lao động không có mặt tại nơi làm việc sau thời hạn quy định tại Điều 33 của Bộ luật này.
2. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động người sử dụng lao động phải báo cho người lao động biết trước:
a) Ít nhất 45 ngày đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn;
b) Ít nhất 30 ngày đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn;
c) Ít nhất 03 ngày làm việc đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều này và đối với hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng.”
Người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng khi đáp ứng được điều kiện là căn cứ pháp luật tại khoản 1 Điều 38 Bộ luật lao động 2012 và điều kiện về thủ tục là phải báo trước một khoảng thời gian nhất định tùy thuộc vào loại hợp đồng.
Chỉ khi đáp ứng được điều kiện trên thì người sử dụng lao động mới có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động. Nếu không đáp ứng được điều kiện này thì việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động là trái pháp luật.
Tuy nhiên, khi ra quyết định chấm dứt cần tuân thủ điều kiện về thủ tục: là báo trước với thời gian quy định tại khoản 2 Điều 38 Bộ luật lao động 2012.
Trên đây là câu trả lời của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam liên quan đến yêu cầu câu hỏi của bạn. Hy vọng câu trả lời của chúng tôi sẽ hữu ích cho bạn.
Nếu có bất cứ vướng mắc gì về pháp lý mời bạn tiếp tục đặt câu hỏi. Chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp.
Trân trọng cảm ơn.
BBT. Hệ Thống Pháp Luật Việt nam