Trách nhiệm bồi thường khi doanh nghiệp cho nhân viên nghỉ việc trái luật?

Ngày gửi: 17/10/2020 lúc 23:02:24

Mã số: HTPL38744

Câu hỏi:

Trách nhiệm bồi thường khi doanh nghiệp cho nhân viên nghỉ việc trái luật? Những khoản người sử dụng lao động phải bồi thường khi cho nhân viên nghỉ việc.

Câu trả lời tham khảo:

Hệ thống pháp luật Việt Nam (hethongphapluat.com) xin chân thành cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến chúng tôi. Sau khi nghiên cứu, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi xin đưa ra câu trả lời có tính chất tham khảo như sau:

Theo quy định của pháp luật lao động thì người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động. Tuy nhiên trên thực tế rất nhiều trường hợp người sử dụng lao động lạm quyền, chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động trái pháp luật. Trường hợp này người sử dụng lao động sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường cho người lao động như sau:

1. Những trường hợp người sử dụng lao động được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn

Người sử dụng lao động sẽ có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động nếu có một trong những lý do được quy định tại Điều 36 Bộ luật lao động năm 2019, cụ thể như sau:

– Người lao động tự ý bỏ việc mà không có các lý do chính đáng theo quy định với thời gian nghỉ việc từ 05 ngày làm việc liên tục trở lên;

– Nếu người lao động được xác định là thường xuyên không hoàn thành các công việc theo hợp đồng lao động dựa trên các tiêu chí đánh giá về mức độ hoàn thành công việc được quy định trong quy chế của người sử dụng lao động;

– Trường hợp buộc phải giảm chỗ làm việc dù người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp để khắc phục mà nguyên nhân là do thiên tai, hỏa hoạn, địch họa, dịch bệnh nguy hiểm hoặc do yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà buộc phải di dời trụ sở, nơi làm việc; thu hẹp sản xuất, kinh doanh;

– Người lao động không có mặt tại nơi làm việc sau khi hết thời hạn tạm hoãn thực hiện hợp đồng; 

– Người lao động cung cấp không trung thực về các thông tin của mình khi người sử dụng lao động yêu cầu như: họ tên, ngày tháng năm sinh, nơi cư trú, giới tính, trình độ học vấn, trình độ về kỹ năng nghề, văn bản xác nhận tình trạng sức khỏe và các vấn đề khác có liên quan trực tiếp đến việc giao kết hợp đồng lao động mà gây ra những ảnh hưởng trực tiếp đến việc tuyển dụng người lao động.

– Người lao động đã đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định tại Điều 169 của Bộ luật lao động năm 2019 nếu các bên không có thỏa thuận khác;

– Đối với những người lao động bị ốm đau, tai nạn mà đã điều trị trong khoảng thời gian từ 12 tháng liên tục trở lên nếu là người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn hoặc người lao động đã điều trị trong khoảng thời gian từ 06 tháng liên tục trở lên nếu làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn từ 12 tháng – 36 tháng hoặc đã làm việc trên 1/2 thời hạn của hợp đồng lao động đối với những người làm việc theo chế độ hợp đồng lao động xác định thời hạn mà có thời hạn dưới 12 tháng khi khả năng lao động vẫn chưa hồi phục. Trường hợp sức khỏe của người lao động đã được bình phục thì người sử dụng lao động có thể xem xét để tiếp tục giao kết hợp đồng lao động với người lao động.

Theo quy định tại Điều 38 Bộ luật lao động năm 2019 thì người sử dụng lao động cũng có quyền được hủy bỏ việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của mình trước khi hết thời hạn báo trước theo quy định. Người sử dụng lao động phải thông báo bằng văn bản và phải được người lao động đồng ý về việc hủy bỏ quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của mình thì mới có giá trị về mặt pháp lý.

– Người sử dụng lao động đồng ý cho người lao động nghỉ việc riêng, những trường hợp nghỉ vì các lý do khác hoặc khi người lao động đang nghỉ hằng năm theo quy định của pháp luật.

– Khi người lao động đang điều trị, đang điều dưỡng theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền khi bị ốm đau hoặc bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Tuy nhiên nếu người lao động đã điều trị từ 12 tháng liên tục trở lên đối với người làm việc theo chế độ hợp đồng lao động không xác định thời hạn hoặc người lao động đã điều trị từ 06 tháng liên tục trở lên đối với người đang làm việc theo chế độ hợp đồng lao động xác định thời hạn mà có thời hạn từ 12 tháng – dưới 36 tháng hoặc đã làm việc từ 1/2 thời hạn hợp đồng lao động trở lên đối với người làm việc theo chế độ hợp đồng lao động xác định thời hạn mà có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động của họ chưa hồi phục.

– Không được đơn phương chấm dứt hợp đồng đối với những lao động nữ đang mang thai; người lao động đang nghỉ thai sản hoặc đang nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi.

3. Thời hạn báo trước khi người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn

Trách nhiệm của người sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động là phải báo trước cho người lao động một khoảng thời gian nhất định trừ trường hợp chấm dứt hợp đồng vì lý do người lao động không có mặt tại nơi làm việc sau thời hạn thời hạn 15 ngày kể từ ngày hết thời gian tạm hoãn thực hiện hợp đồng và vì lý do người lao động tự ý bỏ việc từ 05 ngày làm việc liên tục trở lên mà không có lý do chính đáng, cụ thể như sau:

– Phải báo trước ít nhất là 45 ngày nếu giao kết hợp đồng lao động không xác định thời hạn;

– Phải báo trước ít nhất là 30 ngày nếu giao kết hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn từ 12 tháng – 36 tháng;

– Phải báo trước ít nhất là 03 ngày làm việc nếu giao kết hợp đồng lao động xác định thời hạn mà có thời hạn dưới 12 tháng và đối với trường hợp lý do đơn phương chấm dứt hợp đồng là người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị trong một khoảng thời gian nhất định nhưng vẫn chưa phục hồi được sức khỏe;

4. Trách nhiệm bồi thường khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật

Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật được xác định là việc người sử dụng lao động chấm dứt hợp đồng lao động mà không đúng theo các quy định về lý do chấm dứt hợp đồng, quy định về thời hạn báo trước nêu trên.

Khi người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật thì sẽ phải chịu các trách nhiệm đối với người lao động và bồi thường với mức bồi thường được quy định tại Điều 41 Bộ luật lao động năm 2019, cụ thể như sau:

4.1. Trường hợp nhận lại người lao động vào làm việc:

Trách nhiệm của người sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật trong trường hợp này bao gồm:

– Người sử dụng lao động sẽ phải có trách nhiệm nhận lại người lao động vào làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết giữa các bên;

– Người sử dụng lao động sẽ phải thanh toán các khoản tiền lương, phải tham gia đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động trong những ngày mà họ không được làm việc;

– Bồi thường một khoản tiền có giá trị bằng với ít nhất hai tháng tiền lương dựa trên hợp đồng lao động cho người lao động.

Người lao động nghỉ việc trong thời gian thử việc có phải báo trước?

– Nếu không còn vị trí việc làm, công việc mà các bên đã giao kết trong hợp đồng lao động đồng thời người lao động vẫn muốn làm việc cho người sử dụng lao động thì hai bên tiến hành việc thỏa thuận để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động đã giao kết.

4.2. Trường hợp người lao động không muốn tiếp tục ở lại làm việc:

Nếu người lao động không muốn tiếp tục ở lại làm việc cho người sử dụng lao động thì lúc này hợp đồng lao động sẽ chấm dứt, người sử dụng lao động sẽ phải có các trách nhiệm sau:

– Chi trả các khoản tiền nêu trên tương tự như trường hợp nhận lại người lao động vào làm việc;

– Chi trả khoản tiền trợ cấp thôi việc theo quy định của pháp luật sau khi chấm dứt hợp đồng lao động.

4.3. Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động và có sự đồng ý của người lao động:

Nếu người lao động đồng ý với phương án không tiếp tục thực hiện hợp đồng của người sử dụng lao động thì người sử dụng lao động sẽ phải có các trách nhiệm sau:

– Chi trả các khoản tiền cho người lao động tượng tự như đối với trường hợp phải nhận người lao động vào làm việc lại nêu trên;

– Người sử dụng lao động phải bồi thường thêm cho người lao động một khoản tiền do hai bên thỏa thuận với nhau nhưng ít nhất phải bằng hai tháng tiền lương của người lao động theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động đã giao kết.

– Chi trả khoản tiền trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 46 của Bộ luật lao động năm 2019.

4.4. Trách nhiệm bồi thường khi không đảm bảo về thời hạn báo trước:

Những trường hợp người sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động phải báo trước cho người lao động biết một khoảng thời gian nhưng lại không thực hiện quy định về thời hạn báo trước theo quy định của pháp luật thì người sử dụng lao động sẽ phải trả cho người lao động một khoản tiền cho những ngày không báo trước đó, khoản tiền có giá trị tương ứng với số tiền lương dựa trên hợp đồng lao động đã giao kết.

Ví dụ thực tế: Anh Trần Văn X đang giao kết hợp đồng lao động không xác định thời hạn với doanh nghiệp Y với mức lương theo hợp đồng là 7.000.000 đồng cho 26 công. Tuy nhiên doanh nghiệp Y cho anh X nghỉ việc tức đơn phương chấm dứt hợp đồng vì anh Y đã tự ý nghỉ việc liên tục trong 07 ngày từ ngày 15/9/2020 đến hết ngày 19/9/2020. Ngày 01/10/2020 doanh nghiệp X thông báo với anh Y về việc chấm dứt hợp đồng vào ngày 12/10/2020.

Như vậy ta thấy hợp đồng lao động của anh Y và doanh nghiệp X là hợp đồng không xác định thời hạn thì theo quy định doanh nghiệp X sẽ phải báo trước cho anh Y ít nhất là 45 ngày tuy nhiên doanh nghiệp X chỉ báo trước 12 ngày còn 33 ngày không báo trước trong đó có 4 ngày nghỉ hàng tuần. Đối với 33 ngày vi phạm về thời hạn báo trước đó doanh nghiệp X sẽ phải bồi thường cho anh Y số tiền là (7000000/26) * (33-4) = 7.807.692 đồng.

Trên đây là câu trả lời của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam liên quan đến yêu cầu câu hỏi của bạn. Hy vọng câu trả lời của chúng tôi sẽ hữu ích cho bạn.

Nếu có bất cứ vướng mắc gì về pháp lý mời bạn tiếp tục đặt câu hỏi. Chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp.

Trân trọng cảm ơn.

BBT. Hệ Thống Pháp Luật Việt nam

Lưu ý: Nội dung tư vấn của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam trên đây chỉ mang tính tham khảo. Tùy vào từng thời điểm và đối tượng khác nhau mà nội dung tư vấn trên có thể sẽ không còn phù hợp do sự thay đổi của chính sách hay quy định mới của pháp luật.