Tranh chấp về đất đai là di sản thừa kế
Ngày gửi: 12/02/2018 lúc 23:02:24
Câu hỏi:
Câu trả lời tham khảo:
Hệ thống pháp luật Việt Nam (hethongphapluat.com) xin chân thành cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến chúng tôi. Sau khi nghiên cứu, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi xin đưa ra câu trả lời có tính chất tham khảo như sau:
Theo như nội dung anh đã cung cấp, năm 1990 cha anh có lấy vợ nhưng không có đăng ký kết hôn. Quy định của pháp luật Hôn nhân gia đình quy định rõ rằng quan hệ hôn nhân chỉ được công nhận khi: đủ điều kiện kết hôn, không vi phạm điều cấm của luật hôn nhân và gia đình và thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Pháp luật chỉ thừa nhận việc kết hôn trước năm 1987 không có đăng ký kết hôn thì khi ly hôn được giải quyết quyền lợi theo quy định của pháp luật. Như vậy, trong trường hợp này cha anh và mẹ kế kết hôn năm 1990 và không có đăng ký kết hôn nên pháp luật không giải quyết vấn đề chia tài sản cũng như giải quyết các quyền lợi liên quan khi cá nhân chết. Phần tài sản của ai thì thuộc tài sản riêng của người ấy. Phần tài sản chung thì theo thỏa thuận để phân chia.
Do cha anh và mẹ kế không có đăng ký kết hôn nên phần di sản của cha anh sẽ thuộc về các con của ông. Năm 2007 cha anh đã đi đăng ký chuyển nhượng quyền sử dụng đất sang cho anh trai anh, tức là di sản bất động sản của ông còn lại lúc này là 1.500 m2 đất. Trong trường hợp cha anh có để lại di chúc thì di sản được chia theo di chúc. Trường hợp cha anh chết không có để lại di chúc thì di sản của ông được chia theo quy định của pháp luật. Cụ thể theo quy định tại Khoản 1 Điều 676 Bộ luật Dân sự 2005:
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 024.6294.9155
Năm 2008, con riêng của mẹ kế có kiện đòi 1.300 m2 đất. Trong trường hợp này, do thông tin anh chưa cung cấp đầy đủ nên xin chia trường hợp như sau:
– Trường hợp cha anh nhận con riêng của mẹ kế làm con nuôi: con riêng có quyền được hưởng di sản thừa kế (chia theo di chúc hoặc chia theo pháp luật).
– Trường hợp cha anh không nhận con riêng của mẹ kế làm con nuôi: con riêng không có quyền hưởng di sản thừa kế.
Mặt khác, dựa trên thông tin anh cung cấp rằng trong thời gian chung sống, cha anh và mẹ kế không có mua thêm bất động sản. Vì vậy, con riêng của mẹ kế anh chỉ được hưởng phần di sản là tài sản riêng của mẹ kế chứ không được đòi phần tài sản của cha anh. Như vậy, lý do kiện đòi bất động sản của người con riêng đưa ra là không có căn cứ pháp luật.
Mảnh đất của cha anh chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sẽ gây khó khăn trong việc thực hiện các giao dịch liên quan chuyển quyền sở hữu đất đai. Vì vậy anh cần đi đăng ký giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho mảnh đất đó. Pháp luật quy định cụ thể các trường hợp được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trường hợp mảnh đất nhà anh có bản vẽ ở xã và được Tòa án chứng thực thì đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 50 Luật Đất đai 2003 và Khoản 2 Điều 100 Luật Đất đai năm 2013.
Trên đây là câu trả lời của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam liên quan đến yêu cầu câu hỏi của bạn. Hy vọng câu trả lời của chúng tôi sẽ hữu ích cho bạn.
Nếu có bất cứ vướng mắc gì về pháp lý mời bạn tiếp tục đặt câu hỏi. Chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp.
Trân trọng cảm ơn.
BBT. Hệ Thống Pháp Luật Việt nam