Việc xác định lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kì hôn nhân

Ngày gửi: 07/08/2015 lúc 23:02:24

Mã số: HTPL35024

Câu hỏi:

Cho em hỏi về việc xác định lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kì hôn nhân như sau: anh A mua một căn nhà (giá 150 triệu đồng) sau khi kết hôn nhưng lại dùng tài sản riêng của mình. sau một thời gian thì A ly hôn với vợ, căn nhà được định giá tài sản là 200 triệu đồng. Như vậy 50 triệu phát sinh có được xem là lợi tức không?

Câu trả lời tham khảo:

Hệ thống pháp luật Việt Nam (hethongphapluat.com) xin chân thành cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến chúng tôi. Sau khi nghiên cứu, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi xin đưa ra câu trả lời có tính chất tham khảo như sau:

– Căn cứ Điều 109, Bộ luật dân sự 2015 quy định về hoa lợi, lợi tức của tài sản:

"Điều 109. Hoa lợi, lợi tức

1. Hoa lợi là sản vật tự nhiên mà tài sản mang lại.

2. Lợi tức là khoản lợi thu được từ việc khai thác tài sản

– Căn cứ Điều 43, Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định về tài sản chung của hai vợ chồng

1. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.

>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 024.6294.9155

2. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 40 của Luật này."

Căn cứ quy định tại Điều 33 và Khoản 1 Điều 40 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định về chia lợi tức phát sinh trong thời kỳ hôn nhân:

"Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng

1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.

3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.

….

Điều 40. Hậu quả của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

1. Trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì phần tài sản được chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Phần tài sản còn lại không chia vẫn là tài sản chung của vợ chồng.

Theo quy định của pháp luật, lợi tức là khoản lợi thu được từ việc khai thác tài sản. Trong vụ việc cụ thể này, căn nhà là tài sản riêng của anh có trước trong thời kỳ hôn nhân. Lợi tức từ (căn nhà) trước thời kỳ hôn nhân được hiểu như cho thuê,mướn,… phát sinh thu nhập thêm từ căn nhà. Bởi vậy, giá căn nhà hiện nay là 200 triệu đồng, trước đây căn nhà có giá trị là 150 triệu, khoản chênh lệch ở đây là 50 triệu. Khoản tiền này không thể coi là lợi tức vì đây là mức giá nhà ở thời điểm hiện tại cao hơn so với mức giá trước đó không phải là số tiền phát sinh từ khai thác giá trị nhà. Bởi vậy, căn nhà 200 triệu này là tài sản riêng của chồng, không phải chia phần chênh lệch nên cho vợ.

Trên đây là câu trả lời của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam liên quan đến yêu cầu câu hỏi của bạn. Hy vọng câu trả lời của chúng tôi sẽ hữu ích cho bạn.

Nếu có bất cứ vướng mắc gì về pháp lý mời bạn tiếp tục đặt câu hỏi. Chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp.

Trân trọng cảm ơn.

BBT. Hệ Thống Pháp Luật Việt nam

Lưu ý: Nội dung tư vấn của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam trên đây chỉ mang tính tham khảo. Tùy vào từng thời điểm và đối tượng khác nhau mà nội dung tư vấn trên có thể sẽ không còn phù hợp do sự thay đổi của chính sách hay quy định mới của pháp luật.