THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 500-TTg | Hà Nội, ngày 26 tháng 10 năm 1978 |
VỀ CÔNG TÁC LƯƠNG THỰC VỤ MÙA 1978
Vụ chiêm xuân 1978, ở miền Bắc, tuy không được mùa, nhưng trước tình hình và nhiệm vụ mới, nhiều tỉnh đã động viên nhân dân ra sức đẩy mạnh sản xuất, tiết kiệm tiêu dùng, đóng góp lương thực gần đạt mức kế hoạch Nhà nước.
Tỉnh Hà Sơn Bình đã hoàn thành vượt mức kế hoạch huy động sớm nhất; các tỉnh Hà Bắc, Thái Bình, Hà Nam Ninh, Hải Hưng, Cao Lạng, Hoàng Liên Sơn cũng đã hoàn thành vượt mức kế hoạch. Tuy vậy, có nơi đánh giá sản xuất chưa sát, chỉ đạo thiếu khẩn trương, cho nên kết quả đạt được còn thấp.
Tình hình lương thực của cả nước hiện nay khó khăn hơn mấy năm trước. Nhà nước huy động lương thực không đạt kế hoạch phải nhập khẩu nhiều hơn. Vụ hè thu, vụ mùa năm 1978, mưa lụt làm mùa màng ở nhiều tỉnh miền Bắc và Nam Bộ bị thất bát nặng. Nhưng bên cạnh những nơi bị mất, nhiều nơi khác lại bội thu. Sản xuất màu ở nhiều vùng phát triển khá. Triển vọng sản lượng sắn có thể gấp hai lần so với năm 1976. Nhiều nơi đang chuẩn bị tích cực trồng màu, nhất là khoai tây vụ đông.
Trước tình hình đó, nhiệm vụ công tác lương thực trước mắt là: “ra sức khắc phục hậu quả của lũ lụt, sớm ổn định sinh hoạt của nhân dân. Phát động phong trào toàn dân, toàn quân ra sức đẩy mạnh sản xuất lương thực ở mọi nơi, bằng mọi cách, tăng nhanh diện tích gieo trồng các loại rau màu vụ đông, tăng diện tích lúa, màu và cây công nghiệp vụ chiêm xuân năm 1979. Chỉ đạo tốt việc khẩn trương thu hoạch lúa mùa, tránh hư hao lãng phí, đồng thời đẩy mạnh công tác huy động lương thực vụ mùa nhanh gọn ngay trong và sau khi thu hoạch. Quản lý phân phối chặt chẽ lương thực trong khu vực Nhà nước và hợp tác xã nông nghiệp và cứu trợ kịp thời những vùng bị lũ lụt nặng”.
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các ngành, các địa phương làm tốt những việc sau đây:
1. Về công tác huy động lương thực: Trước tình hình lương thực cả nước đang có nhiều khó khăn, những địa phương được mùa hay mùa màng bình thường, ít bị ảnh hưởng của bão lụt, cần chỉ đạo các hợp tác xã hoàn thành mức kế hoạch huy động cả năm và trả các khoản nợ Nhà nước (nếu có), đồng thời tiết kiệm tiêu dùng, dành thêm lương thực bán ngoài kế hoạch cho Nhà nước theo giá khuyến khích.
Đối với vùng bị ngập lụt, phải nắm vững tình hình cụ thể từng hợp tác xã về mức độ thiệt hại, khả năng thu hoạch, điều kiện sản xuất vụ đông, động viên các hợp tác xã không bị thiệt hại hay chỉ bị thiệt hại ít, cố gắng làm đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế nông nghiệp cả năm và bán lương thực vụ này cho Nhà nước theo mức được giao. Những hợp tác xã bị mất trắng hoặc bị thiệt hại nặng, được xét miễn giảm thuế nông nghiệp theo chính sách. Trường hợp cần thiết, Nhà nước sẽ hỗ trợ cho những hợp tác xã này một phần lương thực để có điều kiện khôi phục sản xuất, giải quyết đời sống, tỉnh và huyện hết sức chú ý lãnh đạo bảo đảm những hàng hóa; thuốc men đến tận tay và đúng đối tượng cần cứu trợ, không để bị mất mát, bị hư hỏng, bị ăn cắp, v.v… Bộ Lương thực và thực phẩm và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố có trách nhiệm nắm chắc tình hình sản xuất và đời sống nhân dân từng nơi để định ra mức huy động sát đúng.
Các huyện cần tính toán cân đối lương thực vụ mùa này để giao mức thuế nông nghiệp và bán lương thực trong kế hoạch cho Nhà nước với từng hợp tác xã, cố gắng phấn đấu bảo đảm mức huy động trung ương giao cho tỉnh, và tỉnh giao cho huyện. Mức cụ thể do Bộ Lương thực và thành phố thông báo cho từng tỉnh, thành phố, sau khi đã trình Thường vụ Hội đồng Chính phủ quyết định.
Trong tình hình lúa bị thất bát nặng, càng phải đặc biệt coi trọng công tác đào dỡ, chế biến, thu mua màu để tăng thêm nguồn lương thực của Nhà nước phân phối cho những đối tượng được Nhà nước cung cấp. Mặt khác, cần chỉ đạo tốt việc điều hòa màu trong từng huyện, từng tỉnh, giữa những tỉnh có nhiều màu với những tỉnh bị lũ lụt, thiếu lương thực.
Ủy ban nhân dân những tỉnh có nhiều màu (nhất là sắn) cần giao nhiệm vụ cho các cơ quan, xí nghiệp, đơn vị bộ đội… ở địa phương cùng với ngành lương thực, nông nghiệp góp sức với nhân dân tổ chức đào dỡ chế biến sẵn và bán cho Nhà nước, không để sắn lưu niên.
Các tỉnh miền xuôi có nhu cầu về sắn để hỗ trợ vùng ngập lụt, cần bàn với Bộ Lương thực và thực phẩm và địa phương có sắn để bố trí kế hoạch khoanh vùng thu mua hợp lý, và tổ chức vận chuyển nhanh chóng, bảo đảm phẩm chất sắn tốt. Mặt khác, các địa phương được giao nhiệm vụ mua hoặc đổi thóc nếp, thóc đặc sản cần cố gắng thực hiện kế hoạch đã định theo sự hướng dẫn của Bộ Lương thực và thực phẩm.
Các tỉnh, huyện trọng điểm lúa cần chỉ đạo các hợp tác xã nông nghiệp đổi thóc chăn nuôi của hợp tác xã lấy lúa mì, vận động xã viên nông dân ăn một phần mì thay gạo, dành thóc đổi cho Nhà nước, để có điều kiện bảo đảm cung cấp thêm một phần gạo cho bộ đội, công nhân viên ở các thành phố và khu công nghiệp tập trung. Bộ Lương thực và thực phẩm bàn bạc cụ thể với các tỉnh và thành phố một cách toàn diện việc trao đổi này, từ số lượng, vận chuyển, địa điểm, thời gian giao đổi, v.v…
Ngành Lương thực cần mở mạng lưới thu mua rộng khắp, bố trí địa điểm cần nhận thuận tiện và phối hợp chặt chẽ với ngân hàng để giải quyết kịp thời vấn đề thanh toán cho hợp tác xã và xã viên, nông dân, không làm ảnh hưởng đến thời gian sản xuất của đồng bào.
Các ngành vật tư và nội thương cần làm tốt việc cung ứng hàng hóa cho các huyện để bán ra kết hợp với thu mua lương thực. Những nơi đã ký hợp đồng hai chiều với các hợp tác xã cần bảo đảm thực hiện cung ứng vật tư, hàng hóa theo đúng hợp đồng đã ký.
2. Về phân phối và tiêu dùng lương thực.
a) Các địa phương cần vận động phong trào tiết kiệm tiêu dùng lương thực, nghiêm cấm tệ nấu rượu lậu, không sử dụng lương thực lãng phí trong các cuộc hội họp, lễ tết từ nông thôn đến thành thị. Đồng thời, đặt mạnh vấn đề tương trợ trong nông thôn sau khi đã làm nghĩa vụ với Nhà nước, giải quyết tốt việc điều hòa lương thực giữa các huyện, xã mùa màng bình thường hoặc khá với vùng bị thiên tai.
b) Đối với các hợp tác xã vùng rau thuộc vành đai thực phẩm quanh thành phố, khu công nghiệp lớn, vùng trồng cây công nghiệp và chăn nuôi tập trung theo kế hoạch và quy hoạch, có bán sản phẩm cho Nhà nước mà thiếu lương thực, cần thực hiện định mức lương thực cung cấp thông qua hợp đồng hai chiều, bảo đảm cho những hợp tác xã này có mức ăn tương đương với mức ăn bình quân của hợp tác xã sản xuất lương thực trong vùng. Việc cung ứng lương thực cũng như các loại vật ư, hàng hóa khác phải gắn chặt với công tác thu mua sản phẩm của hợp tác xã. Những hợp tác xã thực hiện đúng kế hoạch sản xuất và bán sản phẩm cho Nhà nước được cung cấp lương thực theo mức đã định. Những hợp tác xã không thực hiện đúng kế hoạch sản xuất, và bán sản phẩm cho Nhà nước, Ủy ban nhân dân huyện phải xem xét kỹ nguyên nhân để quy định mức cung ứng lương thực hợp lý.
3. Về tổ chức chỉ đạo thực hiện.
Thi hành chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về công tác lương thực vụ mùa năm 1978 cùng với các nghị quyết của Hội đồng Chính phủ về việc vận động phong trào sản xuất lương thực, khắc phục hậu quả của lũ lụt, về phát triển hoa màu, là nhiệm vụ cấp bách, khẩn trương, mà chính quyền các cấp cần tập trung sức làm cho tốt.
Cần tăng cường công tác giáo dục tư tưởng, chính trị trong đảng viên, cán bộ và quần chúng để mỗi người thấy rõ khó khăn chung về lương thực của cả nước hiện nay, đồng thời nhận thức đầy đủ về truyền thống cách mạng, tinh thần tự lực tự cường của nhân dân và khả năng sản xuất của từng địa phương để ra sức phấn đấu góp phần phát triển sản xuất, ổn định nhanh đời sống, chống tư tưởng vô trách nhiệm, bàng quan, tiêu cực trước khó khăn…
Ủy ban nhân dân các địa phương cũng như các ngành có trách nhiệm ở trung ương cần phối hợp chặt chẽ, đặc biệt phấn đấu hoàn thành nhanh gọn nhiệm vụ huy động lương thực vụ mùa, đồng thời giải quyết tốt đời sống nhân dân vùng ngập lụt, tạo điều kiện vươn lên giành những vụ sản xuất lương thực bội thu trong năm 1979.
| KT. THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ |
- 1 Chỉ thị 154-TTg về công tác lương thực vụ chiêm xuân 1974 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 2 Chỉ thị 275-TTg năm 1974 về công tác lương thực vụ mùa 1974 và thi hành rộng khắp, triệt để quyết định 75-CP do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 3 Chỉ thị 163-TTg năm 1978 về một số công tác lương thực trước mắt do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 4 Chỉ thị 337-TTg về công tác lương thực vụ mùa năm 1979 ở các tỉnh miền Bắc do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 5 Chỉ thị 195-TTg về công tác lương thực vụ Chiêm xuân 1979 ở miền Bắc do Thủ tướng Chính phủ ban hành