BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 53/2007/CT-BGDĐT | Hà Nội, ngày 07 tháng 09 năm 2007 |
CHỈ THỊ
VỀ NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM CỦA GIÁO DỤC ĐẠI HỌC NĂM HỌC 2007 – 2008
Quán triệt Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, căn cứ các nhiệm vụ đề ra trong giai đoạn 2 của Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010, tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 07/11/2006 của Bộ Chính trị về cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP ngày 02/11/2005 của Chính phủ về Đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020 và Chỉ thị số 33/2006/CT-TTg ngày 08/9/2006 của Thủ tướng Chính phủ về chống tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục; phát huy những kết quả đã đạt được trong năm học 2006-2007; căn cứ tình hình thực tế của giáo dục đại học, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ thị về các nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục đại học năm học 2007-2008 như sau:
1. Gắn kết việc thực hiện nghiêm túc và hiệu quả Chỉ thị số 06-CT/TW của Bộ Chính trị về cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” với việc thực hiện Chỉ thị số 33/2006/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chống tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục, các cơ sở giáo dục đại học toàn quốc tập trung triển khai cuộc vận động “Nói không với đào tạo không đạt chuẩn, không đáp ứng nhu cầu xã hội”.
Đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, trọng tâm việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là rèn luyện tư cách, phẩm chất nhà giáo, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, chấp hành pháp luật, không vi phạm đạo đức nhà giáo, thường xuyên tự học, tích cực tham gia nghiên cứu khoa học. Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương về đạo đức, tự học và sáng tạo.
Sinh viên sẽ triển khai các hoạt động theo chủ đề “Tuổi trẻ học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” với trọng tâm là tăng cường ý thức và ý chí học tập vì đất nước, vì bản thân, tu dưỡng đạo đức, tuân thủ pháp luật của Nhà nước và nội quy nhà trường, tích cực tham gia công tác xã hội và các hoạt động tình nguyện.
Cuộc vận động “hai không” – “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” trong năm học 2006-2007 của toàn ngành đã đạt được kết quả bước đầu và có ý nghĩa to lớn đối với ngành và đất nước.
Trong lĩnh vực giáo dục đại học, điều mà Quốc hội, đảng, chính quyền các cấp và xã hội, các địa phương, các cơ quan, bức xúc nhất là việc một tỷ lệ không nhỏ trong các sinh viên tốt nghiệp hằng năm không đủ kiến thức và kỹ năng cần thiết để có thể làm việc theo đúng trình độ của bằng cấp, năng lực nghề nghiệp của họ không đáp ứng nhu cầu của xã hội, của nơi tiếp nhận họ làm việc. Sinh viên có bằng tốt nghiệp trình độ đại học, cao đẳng song không đạt chuẩn đào tạo, không hành nghề được một cách phù hợp, là một sự lãng phí lớn với xã hội, nhà trường, bản thân người học và gia đình. Hiện tượng chất lượng đào tạo không đáp ứng nhu cầu xã hội đang là thách thức lớn nhất, là điểm yếu nhất và là một trong những sự lãng phí lớn nhất của hệ thống giáo dục đại học, đi ngược lại sứ mạng thiêng liêng mà xã hội, nhà nước đã tin cậy và giao cho chúng ta là: Cung cấp nguồn nhân lực trình độ cao cho hiện đại hoá, công nghiệp hoá và phát triển nhanh đất nước.
Vì vậy, bắt đầu từ năm học này, các cơ sở giáo dục đại học trong cả nước cần triển khai thực hiện Chỉ thị 33/2006/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ chủ yếu qua cuộc vận động “Nói không với đào tạo không đạt chuẩn, không đáp ứng nhu cầu xã hội”.
Trong tháng 9/2007 Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ gửi tới tất cả các cơ sở giáo dục đại học dự thảo đề án học phí mới. Tinh thần chung là học phí mới sẽ cao hơn học phí trong những năm vừa qua với mức hợp lý, để tạo điều kiện cho các cơ sở giáo dục đại học có thể cung ứng dịch vụ đào tạo với chất lượng cao hơn, đồng thời có chính sách giảm học phí, có học bổng và cho vay để các em học sinh có đủ điều kiện trình độ và đạo đức vào học ở các trường này qua thi tốt nghiệp trung học phổ thông (THPT), thi tuyển sinh đại học, cao đẳng hoặc xét tuyển (từ năm 2009 trở đi) đều có thể được học đại học, cao đẳng.
Như vậy, chúng ta sẽ có các điều kiện cần thiết để sớm chấm dứt tình trạng hiện nay ở một số cơ sở giáo dục đại học: tăng thu nhập cho mình bằng cách đào tạo và cung cấp cho xã hội những người tốt nghiệp không đạt chuẩn đào tạo, không đáp ứng nhu cầu xã hội, gây lãng phí cho đất nước. Những năm gần đây, một số cơ sở đào tạo như Trường Đại học Giao thông vận tải, Trường Đại học Nông nghiệp I, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh... đã chuyển mạnh từ đào tạo theo khả năng sang đào tạo theo nhu cầu của doanh nghiệp, của xã hội.
Bước vào năm học mới, thủ trưởng các cơ sở giáo dục đại học báo cáo để Đảng uỷ bàn bạc và có Nghị quyết về triển khai cuộc vận động này tại trường, phối hợp chặt chẽ với công đoàn, đoàn thanh niên thực hiện chủ trương quan trọng này của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Cần tiến hành một đợt sinh hoạt sâu sắc ở từng bộ môn, khoa, phòng, ban, trung tâm và trong cán bộ chủ chốt toàn trường để trao đổi về các vấn đề như: ngành học nào, khoa nào, hệ đào tạo nào, trình độ đào tạo nào đang tồn tại tình trạng đào tạo không đạt chuẩn đào tạo, sinh viên, học viên ra trường không đáp ứng các yêu cầu cơ bản của nghề nghiệp ở trình độ tương ứng, có hay không tình trạng buông trôi chất lượng đầu ra, chỉ chú ý duy trì số lượng sinh viên, học viên cao để đảm bảo thu nhập. Từ đó đề xuất các giải pháp để sớm chấm dứt tình trạng tuyển sinh quá khả năng đảm bảo chất lượng tốt nghiệp, từng bước nâng cao chất lượng đào tạo trong 3 năm tới và những năm tiếp theo. Năm học 2007-2008 là năm học đầu tiên của giai đoạn 3 năm đột phá vào việc “Nói không với đào tạo không đạt chuẩn, không đáp ứng nhu cầu của xã hội”.
2. Tiếp tục thực hiện lộ trình đổi mới công tác tuyển sinh và triển khai tích cực đổi mới chương trình, giáo trình, tổ chức đào tạo theo học chế tín chỉ
a) Tiếp tục thực hiện lộ trình đổi mới tuyển sinh
Công tác thi tuyển sinh đại học, cao đẳng hệ chính quy cho năm học 2008-2009 về cơ bản giữ ổn định như năm 2007. Tổ chức rút kinh nghiệm việc ra đề thi trắc nghiệm, việc hướng dẫn thi trắc nghiệm để triển khai tiếp thi trắc nghiệm các môn khác.
Để chuẩn bị cho việc thực hiện một kỳ thi quốc gia trung học phổ thông (THPT), dùng kết quả để vừa xét tốt nghiệp THPT, vừa để làm một căn cứ cho xét tuyển đại học, cao đẳng, trong năm học 2007-2008 Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ xây dựng và ban hành quy định khung về xét tuyển vào các cơ sở giáo dục đại học. Các cơ sở giáo dục đại học cần xây dựng phương án xét tuyển vào từng trường và thông báo công khai, rộng rãi để học sinh, nhân dân biết trong năm 2008.
Thực hiện chủ trương đổi mới phương pháp giao chỉ tiêu tuyển sinh, năm học 2007 - 2008 Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Đổi mới phương pháp giao chỉ tiêu tuyển sinh đào tạo”, trong đó chú trọng tiêu chí về số sinh viên/1 giảng viên quy đổi và các tiêu chí cần thiết khác thể hiện khả năng bảo đảm chất lượng đào tạo của các cơ sở giáo dục đại học khi đăng ký chỉ tiêu tuyển sinh.
Nâng cao chất lượng tuyển chọn đầu vào đào tạo theo hình thức vừa làm vừa học theo hướng tương đương với hệ chính quy. Các trường tổ chức tuyển sinh hình thức vừa làm vừa học vào 2 đợt trong năm. Việc thi phải tổ chức thực sự nghiêm túc.
Đối với tuyển sinh đào tạo trình độ tiến sĩ sẽ thực hiện theo quy chế mới, chú trọng đánh giá năng lực nghiên cứu, năng lực giải quyết đề tài của mỗi thí sinh và khả năng ngoại ngữ (thể hiện qua các chứng chỉ theo thông lệ quốc tế).
b) Triển khai đổi mới tổ chức đào tạo
Về chương trình đào tạo: Năm học 2007-2008 hoàn thành việc biên tập, thẩm định và ban hành 132 chương trình khung, tổ chức xây dựng mới 100 chương trình khung để ban hành vào năm học 2008 - 2009. Các trường cần rà soát lại từng chương trình đào tạo trên cơ sở các chương trình khung đã ban hành và tham khảo chương trình đào tạo tiên tiến của các nước để xây dựng lại chương trình đào tạo theo hướng tiên tiến. Các trường dự kiến đào tạo một số môn hoàn toàn theo những chương trình của nước ngoài cần có sự thẩm định phù hợp để đảm bảo các chương trình này tốt hơn các chương trình đang được giảng dạy.
Về giáo trình: Tiếp tục xây dựng thư viện giáo trình điện tử, đảm bảo cuối năm 2008 sẽ có ít nhất 1000 giáo trình điện tử trên mạng của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Năm học 2007-2008, các trường cần có kế hoạch đầu tư xây dựng hệ thống giáo trình (thông qua việc viết giáo trình, biên dịch giáo trình, mua quyền sử dụng giáo trình hoặc sử dụng giáo trình điện tử…) để đảm bảo 100% các môn học chính có giáo trình.
Về đào tạo theo tín chỉ: Tháng 11/2007 Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ tổ chức tập huấn, hướng dẫn việc thực hiện đào tạo theo học chế tín chỉ. Trong năm học 2007-2008 chuẩn bị và chuyển sang đào tạo theo học chế tín chỉ ở ít nhất 50 cơ sở giáo dục đại học; các cơ sở phải xây dựng kế hoạch, lộ trình và tuyên bố thời điểm chuyển sang đào tạo theo học chế tín chỉ, trên cơ sở chuẩn bị đầy đủ các điều kiện về cơ sở vật chất, năng lực đội ngũ, phương pháp quản lý, tài liệu học tập và thí nghiệm. Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ kiểm tra việc đảm bảo các điều kiện tiên quyết để triển khai đào tạo theo học chế tín chỉ ở các trường.
Chú trọng nâng cao chất lượng đào tạo trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ: Nâng cao chất lượng tuyển chọn, chú trọng đánh giá khả năng chuyên môn và trình độ ngoại ngữ khi tuyển chọn, đặc biệt đối với nghiên cứu sinh, nhằm nâng cao năng lực tiếp cận với tài liệu khoa học của nước ngoài, cập nhật kiến thức khoa học hiện đại trong quá trình học tập và nghiên cứu. Hạn chế tỉ lệ học viên và nghiên cứu sinh theo học hình thức không tập trung; đẩy mạnh và hoàn thiện việc đào tạo trình độ thạc sĩ theo học chế tín chỉ. Đối với đào tạo trình độ tiến sĩ, chú trọng nâng cao chất lượng đào tạo thông qua yêu cầu công bố kết quả nghiên cứu của nghiên cứu sinh trên các tạp chí khoa học có uy tín quốc tế và trong nước; quy định chặt chẽ về trách nhiệm của bộ môn và người hướng dẫn trong quá trình đào tạo nghiên cứu sinh.
3. Xây dựng đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục
Năm học 2007-2008 hoàn thành việc xây dựng và thực hiện quy hoạch về đào tạo, bồi dưỡng giảng viên các trường đại học, cao đẳng; xây dựng và thực hiện chế độ làm việc đối với giảng viên đại học, cao đẳng; xây dựng quy định về tiêu chuẩn và hình thức tuyển dụng giảng viên đại học, cao đẳng. Bộ Giáo dục và Đào tạo trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và tổ chức triển khai thực hiện Đề án huy động các chuyên gia là người Việt Nam ở nước ngoài tham gia đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ ở các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam.
Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ hoàn thiện đề án đào tạo 20.000 tiến sĩ cho giảng viên các cơ sở giáo dục đại học để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào tháng 11 năm 2007. Riêng năm học 2007-2008 sẽ tuyển chọn để gửi đào tạo 1.500 tiến sĩ cho giảng viên các trường đại học, cao đẳng, trong đó đào tạo ở nước ngoài khoảng 500 nghiên cứu sinh và đào tạo ở trong nước khoảng 1.000 nghiên cứu sinh. Mỗi cơ sở giáo dục đại học cần phải xây dựng kế hoạch phát triển đội ngũ đến năm 2020 và có giải pháp cụ thể cho việc thực hiện kế hoạch hằng năm, trước mắt cho năm 2008, để việc đào tạo giảng viên không ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu và đảm bảo quyền lợi trước mắt cũng như lâu dài của giảng viên.
Năm học 2007-2008, tổ chức 12 khoá bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý trường đại học cho khoảng 450 lãnh đạo các cơ sở giáo dục đại học và cán bộ quản lý.
4. Kiểm định chất lượng giáo dục đại học
Tháng 10 năm 2007 tổ chức hội nghị toàn quốc về chất lượng giáo dục đại học Việt Nam. Năm học 2007-2008 tiếp tục kiện toàn các tổ chức khảo thí và đảm bảo chất lượng giáo dục đại học ở các cơ sở giáo dục đại học; hướng dẫn và khuyến khích thành lập các tổ chức kiểm định giáo dục đại học độc lập, hoạt động theo mô hình doanh nghiệp. Hoàn thành công tác kiểm định 30 trường đại học. Mỗi cơ sở giáo dục đại học cần lập kế hoạch triển khai công tác kiểm định chất lượng trường, bắt đầu bằng tự đánh giá. Tiến tới xây dựng cơ chế tự đảm bảo chất lượng và các trường tiến hành tự đánh giá theo định kỳ.
5. Công tác quy hoạch, tài chính và xây dựng cơ sở vật chất
Hoàn thành Đề án đổi mới cơ chế tài chính đối với giáo dục đại học, Đề án học phí, học bổng và tín dụng sinh viên để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào cuối năm 2007; xây dựng quy định phân cấp về tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Khuyến khích các trường liên kết với các doanh nghiệp trong đào tạo, thực hành nghề nghiệp và sử dụng nguồn nhân lực qua đào tạo. Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các đoàn thể tổ chức Hội thảo về đào tạo theo nhu cầu xã hội, nhu cầu của các doanh nghiệp. Trên cơ sở đó các bộ và đoàn thể trình đề án đẩy mạnh đào tạo nghề nghiệp theo nhu cầu của doanh nghiệp và xã hội vào quý IV năm 2007. Sau khi đề án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, cùng với quy định của Chính phủ về cơ chế thu và sử dụng học phí, các trường đại học, cao đẳng sẽ có cơ sở pháp lý quan trọng để triển khai cuộc vận động “Nói không với đào tạo không đạt chuẩn, không đáp ứng nhu cầu của xã hội”.
Triển khai Quyết định số 121/2007/QĐ-TTg ngày 27/7/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch mạng lưới các trường đại học và cao đẳng giai đoạn 2006-2020, tháng 10 năm 2007 Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ làm việc với Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài chính về việc dành quỹ đất cho việc xây dựng các cơ sở giáo dục đại học. Trong quý IV năm 2007, Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ phối hợp với UBND các tỉnh để tổ chức hội nghị về quy hoạch đại học, cao đẳng tại các vùng, thông báo quy hoạch và các tiêu chí thành lập trường, bàn các giải pháp để xây dựng các trường mạnh cho từng vùng.
Trong kế hoạch phát triển trường hằng năm, các trường cần xây dựng kế hoạch chi tiết về nguồn lực tài chính, đa dạng hoá nguồn tài chính, khai thác triệt để các nguồn lực từ hoạt động nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ, từ các dịch vụ và tư vấn, từ hợp tác quốc tế và đầu tư nước ngoài để xây dựng cơ sở vật chất, trường lớp, thiết bị.
Các trường cần xây dựng lộ trình và tuyên bố lộ trình đảm bảo đủ phòng học và tự học cho sinh viên (xóa bỏ tình trạng đi thuê lớp học và hạn chế dần việc học vào buổi tối), đủ chỗ ngồi làm việc cho giảng viên và cán bộ nghiên cứu, phấn đấu để hết năm học 2007-2008 các giáo sư và phó giáo sư có chỗ ngồi làm việc riêng tại trường.
6. Công tác nghiên cứu khoa học
Năm học 2007-2008 ban hành các tiêu chí giao kinh phí sự nghiệp khoa học công nghệ có căn cứ vào số lượng các giảng viên, tiến sĩ, phó giáo sư, giáo sư và số lượng nghiên cứu sinh của các đơn vị cho các cơ sở đào tạo, nhằm tăng cường phân cấp quản lý cho các trường. Xây dựng cơ chế khuyến khích các nhà giáo, các nhà khoa học đầu ngành tham gia chủ trì các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học (NCKH), hướng dẫn sinh viên NCKH. Ban hành Quy định về nhiệm vụ NCKH của giảng viên các trường đại học và cao đẳng. Xây dựng và hình thành cơ sở dữ liệu quốc gia về nghiên cứu khoa học của các cơ sở giáo dục đại học; triển khai chợ công nghệ trên mạng làm nơi giao dịch đặt hàng nghiên cứu và thương mại hóa các kết quả nghiên cứu. Xây dựng cuốn sách về phương pháp nghiên cứu khoa học để xuất bản vào cuối năm 2007.
Các trường cần có quy định cụ thể về nhiệm vụ NCKH của giảng viên, phát huy thế mạnh của từng trường, từng khoa, bộ môn, từng nhóm giảng viên trong việc thực hiện các đề tài NCKH. Các trường cần phấn đấu để có nguồn thu ngày càng tăng từ hoạt động NCKH.
7. Hoạt động hợp tác quốc tế
Xây dựng quy định mới nhằm tăng tính chủ động cho các cơ sở trong hợp tác quốc tế, đảm bảo chất lượng đào tạo. Chuẩn bị tốt cho kỳ thi Vật lý quốc tế tổ chức tại Hà Nội vào tháng 7 năm 2008.
Thành lập Trường đại học Việt – Đức trên cơ sở hợp tác giữa hai quốc gia.
Năm học 2007-2008 mỗi trường cần xây dựng chiến lược hợp tác quốc tế (tới năm 2010, định hướng đến năm 2015), xác định các đối tác chiến lược có trình độ khoa học và kinh nghiệm quản lý tiên tiến, có tiềm lực về tài chính để hỗ trợ phát triển nhà trường. Mỗi trường cần chủ động tìm nguồn tài trợ, tạo điều kiện để giảng viên, cán bộ quản lý tham gia trao đổi về nội dung, chương trình, giáo trình và kinh nghiệm quản lý với trường và cơ quan quản lý giáo dục ở các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới.
8. Công tác chỉ đạo của ngành
Trong tháng 9 năm 2007, Bộ trưởng và các Thứ trưởng làm việc với 12 cơ sở giáo dục đại học về kế hoạch triển khai cuộc vận động “Nói không với đào tạo không đạt chuẩn, không đáp ứng nhu cầu của xã hội”. Tháng 10 năm 2007, tháng 01 năm 2008 và tháng 4 năm 2008 lãnh đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì giao ban với các cơ sở giáo dục đại học trong 7 vùng của cả nước để đánh giá tình hình triển khai cuộc vận động nêu trên và tổng kết năm học 2007 – 2008 khối đại học, cao đẳng cả nước vào tháng 8 năm 2008.
Bắt đầu từ năm học 2007-2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ phối hợp với các trường để xây dựng và công bố các tiêu chí thi đua, nhằm đánh giá và biểu dương xứng đáng các trường và cá nhân đã có đóng góp tích cực cho sự nghiệp phát triển giáo dục thông qua hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học theo nhu cầu của doanh nghiệp và xã hội, đi đầu trong sự nghiệp đổi mới giáo dục đại học.
Các hoạt động thanh tra giáo dục, thanh tra nhân dân cần được tăng cường để giám sát các hoạt động của nhà trường, chống tiêu cực, chống lãng phí, chống tham nhũng.
Để tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trên đây, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo yêu cầu:
Giám đốc các đại học, học viện, hiệu trưởng các trường đại học, cao đẳng, viện trưởng các viện nghiên cứu đào tạo trình độ tiến sĩ chịu trách nhiệm xây dựng kế hoạch cụ thể triển khai cuộc vận động “Nói không với đào tạo không đạt chuẩn, không đáp ứng nhu cầu xã hội” gửi về Bộ Giáo dục và Đào tạo trước 30 tháng 9 năm 2007 và tổ chức thực hiện.
Thủ trưởng các đơn vị thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm thực hiện nghiêm túc chỉ thị này; hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc các cơ sở giáo dục đại học thực hiện các nhiệm vụ đề ra; kịp thời tiếp nhận các báo cáo, phản ánh tình hình và đề xuất các biện pháp chỉ đạo để giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện.
Chỉ thị này được phổ biến tới tất cả cán bộ, công chức, viên chức ở cơ quan quản lý giáo dục đại học, các cơ sở giáo dục đại học thuộc các loại hình công lập và tư thục để quán triệt và thực hiện./.
| BỘ TRƯỞNG |
- 1 Quyết định 2375/QĐ-BGDĐT năm 2010 công bố danh mục văn bản quy phạm pháp luật do Bộ Giáo dục và Đào tạo và liên tịch ban hành từ năm 1986 đến năm 2007 hết hiệu lực do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
- 2 Quyết định 2375/QĐ-BGDĐT năm 2010 công bố danh mục văn bản quy phạm pháp luật do Bộ Giáo dục và Đào tạo và liên tịch ban hành từ năm 1986 đến năm 2007 hết hiệu lực do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
- 1 Chỉ thị 39/2007/CT- BGDĐT về nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên, giáo dục chuyên nghiệp và các trường, khoa sư phạm trong năm học 2007-2008 do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
- 2 Quyết định 121/2007/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch mạng lưới các trường Đại học và Cao đẳng giai đoạn 2006 - 2020 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 3 Chỉ thị 49/2006/CT-BGDĐT về nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục đại học trong năm học 2006 – 2007 do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
- 4 Chỉ thị 33/2006/CT-TTg về chống tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 5 Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020 do Chính phủ ban hành
- 1 Chỉ thị 39/2007/CT- BGDĐT về nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên, giáo dục chuyên nghiệp và các trường, khoa sư phạm trong năm học 2007-2008 do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
- 2 Chỉ thị 49/2006/CT-BGDĐT về nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục đại học trong năm học 2006 – 2007 do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành