Hệ thống pháp luật

Con có được khởi kiện đòi lại đất khi bố lấy sổ đỏ đi cầm cố?

Ngày gửi: 07/08/2015 lúc 23:02:24

Mã số: HTPL24825

Câu hỏi:

Tôi được bố tặng cho quyền sử dụng đã được chính quyền địa phương xác nhận năm 2011, đến năm 2013 thì bố tôi lấy sổ đỏ đi cầm cố và mất khả năng trả nợ, nay bị kê biên thi hành án, tôi có quyền thể kiện đòi quyền lợi của mình không? 

Câu trả lời tham khảo:

Hệ thống pháp luật Việt Nam (hethongphapluat.com) xin chân thành cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến chúng tôi. Sau khi nghiên cứu, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi xin đưa ra câu trả lời có tính chất tham khảo như sau:

1. Căn cứ pháp lý

– Bộ luật dân sự 2005

– Luật đất đai 2003

2. Nội dung tư vấn

Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, còn bên được tặng cho đồng ý nhận. Theo quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 127 Luật đất đai 2003 thì hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (trong đó có hợp đồng tặng cho) phải có chứng nhận của công chứng nhà nước. Trường hợp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân thì được lựa chọn hình thức chứng nhận của công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất.

"1. Tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, nếu theo quy định của pháp luật bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu.

2. Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký; nếu bất động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản."

 Như vậy, đối với việc tặng cho quyền sử dụng đất thì hợp đồng tặng cho phải được thực hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất là kể từ khi hoàn tất thủ tục đăng ký sang tên quyền sử dụng đất.

>>> Luật sư tư vấn pháp luật về kiện đòi lại đất khi đã được tặng cho: 024.6294.9155

Bạn nêu bố bạn tặng cho bạn quyền sử dụng đất và đã được chính quyền địa phương xác nhận năm 2011. Do bạn không nói rõ việc tặng cho giữa bạn và bố bạn đã làm thủ tục sang tên hay chưa nên có thể xảy ra các trường hợp sau:

– Trường hợp 1, nếu việc tặng cho giữa bố bạn và bạn chưa thực hiện thủ tục đăng ký sang tên quyền sử dụng đất thì hợp đồng tặng cho giữa hai bố con bạn chưa có hiệu lực. Điều này có nghĩa là mảnh đất này vẫn đang thuộc về bố bạn và bố bạn có toàn quyền đối với mảnh đất này. Theo như bạn nêu, năm 2013 bố bạn đã cầm cố mảnh đất và hiện tại bố bạn không có khả năng trả nợ. Mảnh đất đang được kê biên để thi hành án. Trong trường hợp này, bạn sẽ không có quyền khởi kiện để đòi lại mảnh đất.

– Trường hợp 2, nếu bố bạn đã tặng cho bạn quyền sử dụng đất và hiện nay đã làm xong thủ tục sang tên trên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì quyền sử dụng đất hiện nay đã thuộc về bạn. Việc bố bạn lấy sổ đỏ đi cầm cố và mất khả năng trả nợ, nay bị kê biên thi hành án. Ở đây, việc bố bạn lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bạn đi cầm cố là sai quy định của pháp luật. Trong trường hợp này để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình thì bạn cần làm đơn khởi kiện ra Tòa án và xuất trình các tài liệu, chứng cứ để chứng minh bạn là chủ sử dụng hợp pháp của mảnh đất trên chứ không phải bố bạn, ví dụ như hợp đồng tặng cho giữa bạn và bố có công chứng… để yêu cầu Tòa án nhân dân cấp huyện xem xét, giải quyết.

Nếu có căn cứ chứng minh mảnh đất trên đúng là của bạn thì Tòa án sẽ xem xét, giải quyết trả lại quyền lợi hợp pháp cho bạn. Căn cứ vào bản án này, cơ quan thi hành án sẽ không tiến hành xử lý mảnh đất đã kê biên để thi hành nghĩa vụ trả nợ của bố bạn nữa.

Trên đây là câu trả lời của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam liên quan đến yêu cầu câu hỏi của bạn. Hy vọng câu trả lời của chúng tôi sẽ hữu ích cho bạn.

Nếu có bất cứ vướng mắc gì về pháp lý mời bạn tiếp tục đặt câu hỏi. Chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp.

Trân trọng cảm ơn.

BBT.Hệ Thống Pháp Luật Việt nam

Lưu ý: Nội dung tư vấn của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam trên đây chỉ mang tính tham khảo. Tùy vào từng thời điểm và đối tượng khác nhau mà nội dung tư vấn trên có thể sẽ không còn phù hợp do sự thay đổi của chính sách hay quy định mới của pháp luật.

Gửi yêu cầu tư vấn