NHẰM NGĂN CHẶN NHỮNG HÀNH VI BẤT HỢP PHÁP CHỐNG LẠI AN TOÀN HOẠT ĐỘNG HÀNG KHÔNG DÂN DỤNG
Ký tại Montreal, ngày 23.9.1971
Các quốc gia thành viên của Công ước này
Xét rằng, các hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn hàng không dân dụng gây nguy hiểm đến an toàn của các cá nhân và tài sản, ảnh hưởng nghiêm trọng tới hoạt động của dịch vụ hàng không, làm mất lòng tin vào sự an toàn hàng không dân dụng của nhân dân toàn thế giới;
Xét rằng việc xẩy ra những hành vi này là một vấn đề rất nghiêm trọng;
Xét rằng nhằm ngăn chặn những hành động này, cần thiết phải đưa ra những biện pháp thích hợp để trừng phạt những kẻ phạm tội;
ĐÃ THỎA THUẬN NHƯ SAU:
1. Bất kỳ người nào thực hiện một hành vi phạm tội cố ý và bất hợp pháp:
(a) thực hiện hành vi bạo lực đối với một người đang ở trên tầu bay trong khi bay mà hành động đó sẽ gây nguy hiểm đến an toàn của tầu bay đó; hoặc
(b) phá hủy tầu bay đang sử dụng hoặc làm hỏng tầu bay như vậy dẫn đến mất khả năng bay hoặc sẽ gây mất an toàn của tầu bay trong khi bay; hoặc
(c) đặt hoặc chỉ đạo đặt vào tầu bay đang sử dụng, dù bằng bất cứ phương thức nào, một thiết bị hoặc chất sẽ phá hủy tầu bay hoặc gây thiệt hại cho tầu bay dẫn đến làm mất khả năng bay, hoặc làm hỏng tầu bay dẫn đến mất an toàn của tầu bay đang bay; hoặc
(d) phá hủy hoặc làm hỏng phương tiện dẫn đường hàng không hoặc cản trở hoạt động của các thiết bị đó, nếu bất kỳ hành động nào như vậy sẽ gây mất an toàn cho tầu bay đang bay.
(e) chuyển thông tin mà mình biết là sai để làm mất an toàn cho tầu bay đang bay.
2. Bất kỳ người nào thực hiện một hành vi phạm tội nếu:
(a) cố gắng thực hiện bất kỳ hành vi phạm tội nào nêu tại khoản 1 của Điều này; hoặc
(b) là kẻ đồng phạm của kẻ thực hiện hoặc cố gắng thực hiện bất kỳ một hành vi phạm tội như vậy.
Nhằm mục đích của Công ước này:
(a) một tầu bay được coi là đang bay kể từ thời điểm mà tất cả các cánh cửa ngoài được đóng lại sau khi xếp tải tới thời điểm khi mà bất kỳ cửa nào như vậy được mở ra để dỡ tải: trong trường hợp hạ cánh bắt buộc, chuyến bay được coi là đang bay đến khi nhà chức trách có thẩm quyền tiếp quản trách nhiệm đối với tầu bay và cá nhân và tài sản trên tầu bay;
(b) một tầu bay được coi là đang khai thác tính từ khi các nhân viên phục vụ dưới mặt đất hoặc tổ bay bắt đầu việc chuẩn bị trước khi bay của tầu bay cho một chuyến bay cụ thể cho tới 24 giờ sau khi có bất kỳ hạ cánh nào; thời gian khai thác, trong mọi trường hợp, sẽ được kéo dài trong suốt toàn bộ thời gian tầu bay đang bay như được xác định trong khoản (a) Điều này.
1. Công ước này không áp dụng đối với tầu bay phục vụ quân đội, hải quan hoặc cảnh sát.
2. Không phụ thuộc việc tầu bay thực hiện chuyến bay quốc tế hay nội địa, Công ước này áp dụng đối với mọi trường hợp quy định tại tiết (a), (b), (c) và (e) khoản 1 Điều 1, nếu:
(a) nơi cất, hạ cánh thực tế hoặc dự định của tầu bay nằm ngoài lãnh thổ của quốc gia đăng ký tầu bay đó; hoặc
(b) hành vi phạm tội được thực hiện trong lãnh thổ của Quốc gia không phải là Quốc gia đăng ký tầu bay.
3. Mặc dù có quy định tại khoản 2 Điều này, trong những trường hợp quy định tại điểm (a), (b), (c) và (e) khoản 1 Điều 1, Công ước này cũng được áp dụng nếu kẻ phạm tội hoặc kẻ tình nghi phạm tội bị phát hiện trên lãnh thổ của Quốc gia không phải là Quốc gia đăng ký tầu bay.
4. Đối với các Quốc gia được nêu tại Điều 9 và trong những trường hợp được nêu tại điểm (a), (b), (c) và (e) khoản 1 Điều 1, Công ước này không áp dụng nếu những nơi quy định trong điểm (a) khoản 2 Điều này nằm trong lãnh thổ của một Quốc gia được nêu tại Điều 9, trừ khi hành vi phạm tội được thực hiện hoặc kẻ phạm tội hoặc kẻ tình nghi phạm tội bị phát hiện trên lãnh thổ của bất kỳ một Quốc gia nào khác.
5. Trong trường hợp được quy định tại điểm (d) khoản 1 Điều 1, Công ước này chỉ áp dụng nếu các thiết bị dẫn đường được sử dụng cho dẫn đường hàng không quốc tế.
6. Những quy định tại khoản 2, 3, 4, và 5 Điều này cũng sẽ áp dụng cho những trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều 1.
(a) khi hành vi phạm tội được thực hiện trên lãnh thổ của Quốc gia đó;
(b) khi hành vi phạm tội được thực hiện trên tầu bay hoặc đối với tầu bay đăng ký ở Quốc gia đó;
(c) khi hành vi phạm tội được thực hiện trên tầu bay hạ cánh trong lãnh thổ của Quốc gia đó cùng với kẻ tình nghi vẫn ở trên tầu bay;
(d) khi hành vi phạm tội được thực hiện trên tầu bay hoặc đối với tầu bay đã thuê kho mà người thuê có trụ sở chính hoặc nơi thường trú, nếu không có trụ sở chính, ở quốc gia đó.
2. Mỗi Quốc gia ký kết sẽ áp dụng những biện pháp cần thiết để thiết lập quyền tài phán của mình đối với những hành vi phạm tội đã nêu tại Điều 1, khoản 1 (a), (b) và (c) và Điều 1, khoản 2 trong chừng mực các điều khoản đó có liên quan đến các hành vi phạm tội, trong trường hợp kẻ tình nghi phạm tội đang hiện diện trên lãnh thổ của mình và Quốc gia này không dẫn độ tội phạm, theo quy định của Điều 8, cho các Quốc gia được nêu tại khoản 1 Điều này.
3. Công ước này không loại trừ việc thực hiện bất kỳ quyền tài phán hình sự nào theo quy định của luật quốc gia.
2. Quốc gia đó phải nhanh chóng tiến hành điều tra sơ bộ về vụ việc.
3. Bất kỳ người nào bị giam giữ theo quy định tại khoản 1 Điều này sẽ được hỗ trợ trong việc thông báo ngay cho đại diện thích hợp gần nhất của Quốc gia nơi kẻ đó là công dân.
4. Theo quy định của Điều này, khi một Quốc gia giam giữ một người thì phải nhanh chóng thông báo cho các Quốc gia nêu tại Điều 5, khoản 1 cho Quốc gia mà người bị giam giữ mang quốc tịch và bất kỳ Quốc gia nào có liên quan về việc người đó bị giam giữ và những chi tiết của lệnh tạm giam, nếu Quốc gia đó xét thấy cần thiết. Quốc gia tiến hành điều tra sơ bộ theo quy định tại khoản 2 Điều này phải nhanh chóng thông báo những phát hiện của mình cho các Quốc gia nói trên và chỉ rõ dự kiến có thực hiện quyền tài phán hay không.
2. Nếu một Quốc gia ký kết thực hiện việc dẫn độ theo quy định của điều ước hiện hành nhận được yêu cầu dẫn độ của Quốc gia ký kết khác chưa tham gia vào điều ước về dẫn độ, thì Quốc gia này có thể xem xét Công ước này như là cơ sở pháp lý cho việc dẫn độ kẻ phạm tội, Việc dẫn độ thực hiện theo những quy định của luật của Quốc gia yêu cầu.
3. Các Quốc gia ký kết không thực hiện việc dẫn độ theo quy định của một điều ước hiện hành sẽ thừa nhận những tội phạm có thể bị dẫn độ giữa các Quốc gia đó theo những điều kiện mà Luật của Quốc gia yêu cầu quy định.
4. Các Quốc gia ký kết sẽ xem xét từng tội phạm để dẫn độ nếu tội phạm được thực hiện không chỉ ở nơi hành vi phạm tội xẩy ra mà còn trên lãnh thổ của các Quốc gia đã cam kết thiết lập quyền tài phán theo với điểm (b), (c) và (d) khoản 1 Điều 5.
2. Khi một chuyến bay bị trì hoãn hoặc bị gián đoạn do việc thực hiện một trong các tội phạm nêu tại Điều 1, bất kỳ Quốc gia ký kết nào nơi tầu bay, hoặc hành khách hoặc tổ bay hiện diện sẽ tạo điều kiện thuận lợi để tiếp tục chuyến đi của hành khách và tổ bay ngay khi có thể mà không trì hoãn việc trao trả tầu bay và hàng hóa trên tầu bay cho người sở hữu hợp pháp tầu bay.
2. Những quy định của khoản 1 Điều này sẽ không ảnh hưởng tới các nghĩa vụ theo bất kỳ Điều ước song phương, đa phương nào khác điều chỉnh hoặc sẽ điều chỉnh toàn bộ hay một phần sự trợ giúp lẫn nhau trong các vấn đề hình sự.
(a) các tình tiết của hành vi phạm tội;
(b) hành động đã thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 10;
(c) các biện pháp đã thực hiện đối với kẻ phạm tội hoặc kẻ bị tình nghi phạm tội và, cụ thể là kết quả của bất kỳ thủ tục dẫn độ hoặc thủ tục pháp lý nào.
2. Khi ký kết, phê chuẩn hoặc gia nhập Công ước này, mỗi Quốc gia có thể tuyên bố không bị giới hạn bởi khoản trên. Các Quốc gia ký kết khác sẽ không bị giới hạn bởi điều khoản mà bất kỳ Quốc gia ký kết nào có sự bảo lưu.
3. Các Quốc gia ký kết có bảo lưu theo khoản trên, tại bất kỳ thời điểm nào, có thể rút sự bảo lưu bằng cách gửi thông báo cho Chính phủ lưu giữ.
2. Công ước này sẽ được các quốc gia ký kết phê chuẩn. Văn bản phê chuẩn và gia nhập được chuyển tới Chính phủ các nước Liên bang cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô-viết, Liên hiệp Anh và Bắc Ai Len, và hợp chủng quốc Hoa kỳ, sau đây được chỉ định là các Chính phủ lưu giữ.
3. Công ước này sẽ có hiệu lực sau 30 ngày kể từ ngày nhận được văn kiện phê chuẩn của 10 quốc gia tham gia Hội nghị Montreal ký kết Công ước này.
4. Đối với các Quốc gia khác, Công ước này có hiệu lực vào ngày có hiệu lực của Công ước theo khoản 3 Điều này, hoặc sau 30 ngày kể từ ngày nhận được văn bản phê chuẩn hoặc gia nhập sau đó.
5. Các Chính phủ lưu giữ nhanh chóng thông báo cho tất cả các quốc gia ký kết và gia nhập về ngày ký kết của từng quốc gia, ngày nhận được của mỗi văn bản phê chuẩn hoặc gia nhập, ngày có hiệu lực của Công ước và các thông báo khác.
6. Ngay sau khi Công ước có hiệu lực, các Chính phủ lưu giữ sẽ đăng ký Công ước này theo quy định của Điều 102 của Hiến chương Liên hợp quốc và Điều 83 của Công ước về hàng không dân dụng quốc tế (Chicago, 1944).
2. Việc bãi ước sẽ có hiệu lực sau sáu tháng tính từ ngày các Chính phủ lưu giữ nhận được thông báo.
Để làm bằng, các vị Đại diện ký tên dưới đây, được Chính phủ của họ ủy quyền, đã ký vào Công ước này.
Làm tại Montreal ngày hai mươi ba tháng chín năm một nghìn chín trăm bảy mươi mốt bằng ba bản chính, mỗi bản được làm bằng bốn thứ tiếng Anh, Pháp, Liên Xô và Tây Ban Nha và đều có giá trị như nhau./.