BỘ LAO ĐỘNG - THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 1372/LĐTBXH-VP | Hà Nội, ngày 04 tháng 05 năm 2010 |
Kính gửi: Văn phòng Chính phủ
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công văn số 2466/VPCP-KGVX ngày 14/4/2010 của Văn phòng Chính phủ về việc báo cáo, đề xuất giải quyết khó khăn, vướng mắc của Khu công nghệ cao thành phố Hồ Chí Minh, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội xin báo cáo như sau:
1. Về tiền ký quỹ khi đưa người lao động đi đào tạo ở nước ngoài theo hình thức thực tập nâng cao tay nghề và uỷ quyền đăng ký tại Ban Quản lý khu công nghệ cao đối với những trường hợp đưa người lao động đi thực tập có thời hạn 90 ngày trở lên.
Kiến nghị: Công ty Intel kiến nghị theo hướng bỏ quy định về ký quỹ và uỷ quyền cho Ban quản lý Khu công nghệ cao được thực hiện đăng ký đối với những trường hợp trên 90 ngày vì: (1) Phù hợp với thủ tục chung một cửa tại chỗ của Khu công nghiệp (2) Đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề cao trong lĩnh vực công nghệ cao của các doanh nghiệp.
Trả lời:
a. Về tiền ký quỹ
Khoản 4 Điều 34 của Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đã quy định một trong những điều kiện để doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hình thức thực tập nâng cao tay nghề là “Có tiền ký quỹ thực hiện hợp đồng nhận lao động thực tập theo quy định của Chính phủ”.
Khoản 2 Điều 6 của Nghị định số 126/2007/NĐ-CP ngày 01/8/2007 của Chính phủ quy định mức tiền ký quỹ của các doanh nghiệp này là 10% tiền vé máy bay một lượt từ nước mà người lao động đến làm việc về Việt Nam.
Do vậy, theo quy định hiện hành của Luật, doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hình thức thực tập nâng cao tay nghề phải thực hiện ký quỹ thực hiện hợp đồng nhận lao động thực tập.
b. Về uỷ quyền đăng ký hợp đồng đưa lao động đi thực tập có thời hạn từ 90 ngày trở lên:
Khoản (a) Điều 36 của Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng quy định: Doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hình thức thực tập nâng cao tay nghề có thời gian dưới 90 ngày đăng ký tại Sở Lao động – Thương binh và Xã hội nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính. Khoản (b) Điều 36 của Luật quy định: Doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hình thức thực tập nâng cao tay nghề có thời gian từ 90 ngày trở lên đăng ký tại Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội.
Điểm (e) Khoản 3 Điều 4 Thông tư số 13/2009/TT-BLĐTBXH ngày 06/5/2009 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về lao động trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao quy định: Căn cứ tình hình thực tế của từng địa phương và bộ máy của Ban quản lý khu công nghiệp, các bên trao đổi để thống nhất uỷ quyền việc đăng ký kế hoạch đưa người lao động đi thực tập ở nước ngoài dưới 90 ngày cho doanh nghiệp trong khu công nghiệp.
Như vậy, trong trường hợp doanh nghiệp đưa người lao động đi thực tập nâng cao tay nghề có thời hạn dưới 90 ngày có thể vận dụng các quy định tại Thông tư 13/2009/TT-BLĐTBXH để đăng ký thực hiện hợp đồng tại Ban Quản lý khu công nghệ cao. Trường hợp doanh nghiệp đưa người lao động đi thực tập nâng cao tay nghề có thời hạn từ 90 ngày trở lên, doanh nghiệp phải đăng ký thực hiện hợp đồng tại Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (Cục Quản lý lao động ngoài nước).
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ghi nhận những kiến nghị về việc miễn tiền ký quỹ và đăng ký hợp đồng đưa lao động đi thực tập ở nước ngoài có thời hạn từ 90 ngày trở lên tại Ban quản lý khu công nghệ cao của Công ty Intel và sẽ xem xét khi đánh giá tình hình thực hiện Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng để có những sửa đổi bổ sung hợp lý.
2. Cấp giấy phép lao động nước ngoài
Kiến nghị: Điều chỉnh theo hướng Giấy xác nhận kinh nghiệm trong nghề nghiệp, trong điều hành sản xuất, quản lý chỉ cần có “công ty mẹ” ở nước ngoài xác nhận và được sự đồng ý của “công ty con” tại Việt Nam hoặc Giấy xác nhận kinh nghiệm trong nghề nghiệp điều hành sản xuất, quản lý của công ty mẹ ở nước ngoài chỉ cần thông qua cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài.
Trả lời:
Theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 4 Nghị định số 34/2008/NĐ-CP ngày 25/3/2008 của Chính phủ quy định về tuyển dụng và quản lý người nước ngoài tại Việt Nam, “Đối với người nước ngoài là nghệ nhân những ngành nghề truyền thống hoặc người có kinh nghiệm trong nghề nghiệp, trong điều hành sản xuất, quản lý mà không có chứng chỉ, bằng công nhận thì phải có bản xác nhận ít nhất 05 (năm) kinh nghiệm trong nghề nghiệp, trong điều hành sản xuất, quản lý được cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài xác nhận”.
Việc xác nhận người nước ngoài có kinh nghiệm trong nghề nghiệp, trong điều hành sản xuất, quản lý được thực hiện bởi cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài xác nhận và theo quy định của mỗi nước, do đó trong văn bản khó có thể liệt kê đầy đủ, kịp thời tất cả các cơ quan có thẩm quyền này và các giấy tờ xác nhận phải được hợp pháp hoá lãnh sự. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ghi nhận kiến nghị và sẽ phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu vấn đề này.
3. Tiền lương tối thiểu vùng
Kiến nghị: Đề nghị Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bộ Khoa học và Công nghệ xem xét khả năng quy định mức tiền lương tối thiểu áp dụng theo vùng và lĩnh vực công nghệ cao, trình Chính phủ ban hành.
Trả lời:
Căn cứ quy định của Bộ luật Lao động, Chính phủ ban hành Nghị định số 97/2009/NĐ-CP và Nghị định số 98/2009/NĐ-CP ngày 30/10/2009 quy định mức lương tối thiểu vùng áp dụng đối với các loại hình doanh nghiệp. Theo đó, mức lương tối thiểu vùng được quy định theo địa bàn hành chính (tỉnh, thành phố, quận, huyện), doanh nghiệp đóng trên địa bàn nào thì áp dụng theo mức lương tối thiểu theo địa bàn đó, không phân biệt trong khu công nghiệp hay ngoài khu công nghiệp hoặc khu công nghệ cao. Mức lương tối thiểu vùng do Chính phủ quy định là mức lương sàn thấp nhất để trả cho lao động giản đơn, chưa qua đào tạo, làm việc trong điều kiện bình thường. Tiền lương thực trả cho người lao động do hai bên thỏa thuận trong hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể, nhưng không được thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định.
Vì vậy, để nâng cao tiền lương cho người lao động, nhất là người lao động làm những công việc phức tạp, công nghệ cao thì không thể thực hiện qua mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định, mà phải thực hiện thông qua thương lượng, thỏa thuận tiền lương, xây dựng các mức lương trong thang lương, bảng lương và ghi trong hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể của từng doanh nghiệp. Để thực hiện được điều này, cần thiết phải nâng cao năng lực thương lượng, thỏa thuận tiền lương cho người lao động, vai trò của tổ chức công đoàn cơ sở và vai trò quản lý, hướng dẫn, tư vấn của Ban quản lý khu công nghệ cao đối với các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghệ cao của thành phố Hồ Chí Minh.
4. Cấp sổ lao động
Kiến nghị: Theo Ban quản lý Khu công nghệ cao phản ánh, việc cấp sổ lao động thời gian qua không đạt hiệu quả như mong muốn, gây lãng phí lớn cho doanh nghiệp và cơ quan đăng ký cấp sổ. Thực tế hiện nay thông tin cần thiết về người lao động đã được cập nhật đầy đủ trong sổ Bảo hiểm xã hội và điều này đáp ứng được nhu cầu thực tế của doanh nghiệp, người lao động và cơ quan Bảo hiểm xã hội. Do đó, sổ lao động thực sự không còn đem lại giá trị hữu ích. Kiến nghị nên bỏ quy định đăng ký cấp sổ lao động hoặc thay bằng hình thức có hiệu quả hơn.
Trả lời:
Thực hiện Đề án đơn giản hoá thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007 – 2010, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã kiến nghị với Thủ tướng Chính phủ bãi bỏ thủ tục hành chính này.
5. Xử lý vi phạm kỷ luật lao động
Kiến nghị: Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cùng Bộ Khoa học và Công nghệ xem xét việc sửa đổi, bổ sung thêm một số quy định áp dụng hình thức xử lý kỷ luật sa thải vào chương VIII của Bộ luật lao động (nếu xét thấy hợp lý và phù hợp với thông lệ quốc tế).
Trả lời:
Theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 85 Bộ luật Lao động và khoản 3, Điều 6 Nghị định số 41/CP ngày 06/7/1995 đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 33/2003/NĐ-CP ngày 02/4/2003 của Chính phủ thì hình thức xử lý kỷ luật sa thải được áp dụng đối với người lao động có hành vi trộm cắp, tham ô, tiết lộ bí mật công nghệ, kinh doanh hoặc có hành vi khác gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của doanh nghiệp và các hành vi này đã được quy định cụ thể trong nội quy lao động của doanh nghiệp.
Vì vậy, để xử lý kỷ luật lao động sa thải đối với người lao động làm việc trong doanh nghiệp thuộc khu công nghệ cao có hành vi vi phạm quy chế bảo mật thông tin về bí quyết công nghệ gây thiệt hại cho doanh nghiệp, trước hết doanh nghiệp phải có trách nhiệm quy định cụ thể các hành vi vi phạm này, hình thức xử lý kỷ luật tương ứng với mức độ thiệt hại, phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp trong nội quy lao động làm cơ sở áp dụng cho từng hành vi vi phạm cụ thể.
Đề nghị Văn phòng Chính phủ tổng hợp, báo cáo.
Nơi nhận: | KT. BỘ TRƯỞNG |
- 1 Công văn 10912/VPCP-KGVX năm 2013 kiến nghị của Hội Xuất bản Việt Nam do Văn phòng Chính phủ ban hành
- 2 Nghị định 97/2009/NĐ-CP quy định mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm việc ở công ty, doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và các tổ chức khác của Việt Nam có thuê mướn lao động
- 3 Nghị định 98/2009/NĐ-CP quy định mức lương tối thiểu vùng đối với lao động Việt Nam làm việc cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế và cá nhân người nước ngoài tại Việt Nam
- 4 Thông tư 13/2009/TT-BLĐTBXH hướng dẫn nhiệm vụ quản lý nhà nước về lao động các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế và khu công nghệ cao do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành
- 5 Nghị định 34/2008/NĐ-CP quy định về tuyển dụng và quản lý người nước ngoài làm việc tại Việt Nam
- 6 Nghị định 126/2007/NĐ-CP Hướng dẫn Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
- 7 Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2006
- 8 Nghị định 33/2003/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 41/CP năm 1995 Hướng dẫn Bộ Luật Lao động về kỷ luật lao động và trách nhiệm vật chất
- 9 Nghị định 41-CP năm 1995 hướng dẫn Bộ luật Lao động về kỷ luật lao động và trách nhiệm vật chất
- 10 Bộ luật Lao động 1994