BỘ TÀI CHÍNH | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 358/TCT-CS | Hà Nội, ngày 26 tháng 01 năm 2011 |
Kính gửi: Cục thuế thành phố Cần Thơ
Trả lời công văn số 304/CT-KTT ngày 25/10/2010 và công văn số 335/CT-KTT ngày 26/11/2010 của Cục thuế TP Cần Thơ về giá tính thuế TTĐB mặt hàng thuốc lá điếu của Công ty liên doanh thuốc lá Vinasa, Tổng cục Thuế có ý kiến như sau:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 5 Thông tư số 64/2009/TT-BTC ngày 27/3/2009 của Bộ Tài chính hướng dẫn giá tính thuế TTĐB thì:
“… Cơ sở sản xuất hàng hóa chịu thuế tiêu thụ đặc biệt bán hàng qua các cơ sở kinh doanh thương mại thì giá làm căn cứ tính thuế tiêu thụ đặc biệt là giá bán chưa có thuế GTGT của cơ sở sản xuất nhưng không được thấp hơn 10% so với giá bán bình quân do cơ sở thương mại bán ra.
Trường hợp giá bán của cơ sở sản xuất thấp hơn 10% so với giá cơ sở kinh doanh thương mại bán ra thì giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt là giá do cơ quan thuế ấn định theo quy định của Luật quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành”;
Tại khoản 5 Điều 5 Thông tư số 64/2009/TT-BTC nêu trên hướng dẫn: “Đối với hàng hóa sản xuất dưới hình thức hợp tác kinh doanh giữa cơ sở sản xuất và cơ sở sở hữu thương hiệu (nhãn hiệu) hàng hóa, công nghệ sản xuất giá tính thuế TTĐB là giá bán ra chưa có thuế GTGT của cơ sở sở hữu thương hiệu (nhãn hiệu) hàng hóa, công nghệ sản xuất”.
Ngày 3/11/2009 Bộ Tài chính đã ban hành công văn số 15550/BTC-TCT hướng dẫn cách tính thuế tiêu thụ đặc biệt đối với sản phẩm thuốc lá điếu được sản xuất dưới hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng sản xuất, trong đó:
“… Trường hợp thuốc lá điếu được sản xuất dưới hình thức hợp tác kinh doanh giữa cơ sở sản xuất và cơ sở sở hữu thương hiệu (nhãn hiệu) thuốc lá, công nghệ sản xuất, giá làm căn cứ tính thuế TTĐB là giá bán ra chưa có thuế GTGT của cơ sở sở hữu thương hiệu, nhãn hiệu, công nghệ sản xuất.
Trường hợp thuốc lá điếu được sản xuất dưới hình thức hợp tác kinh doanh giữa cơ sở sản xuất và cơ sở kinh doanh thương mại không sở hữu thương hiệu (nhãn hiệu) thuốc lá, công nghệ sản xuất; cơ sở kinh doanh thương mại chỉ chịu trách nhiệm bao tiêu toàn bộ sản phẩm mà cơ sở sản xuất sản xuất ra thì giá làm căn cứ tính thuế TTĐB là giá bán chưa có thuế GTGT của cơ sở sản xuất nhưng không thấp hơn 10% so với giá bình quân do cơ sở kinh doanh thương mại bao tiêu sản phẩm bán ra. Nếu giá bán của cơ sở sản xuất thấp hơn 10% so với giá cơ sở kinh doanh thương mại bao tiêu sản phẩm bán ra thì giá tính thuế TTĐB là giá do cơ quan thuế ấn định theo quy định của Luật Quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành”.
Căn cứ các hướng dẫn trên, trường hợp thuốc lá điếu nhãn hiệu Marlboro được sản xuất dưới hình thức hợp tác kinh doanh giữa cơ sở sản xuất là Công ty liên doanh thuốc lá Vinasa (Vinasa) với Công ty Philip Morris Vietnam S.A (PMV), nếu PMV không sở hữu thương hiệu (nhãn hiệu) thuốc lá, công nghệ sản xuất, PMV là cơ sở kinh doanh thương mại, sau đó PMV bán lại toàn bộ sản phẩm do Vinasa sản xuất ra cho Vinasa và PMV quyết định giá bán của Vinasa ra thị trường thì giá làm căn cứ tính thuế tiêu thụ đặc biệt là giá bán chưa có thuế GTGT do Vinasa (cơ sở sản xuất) bán cho PMV nhưng không thấp hơn 10% so với giá mà PMV quy định cho Vinasa bán ra thị trường. Nếu giá bán của cơ sở sản xuất thấp hơn 10% so với giá mà PMV quy định cho Vinasa bán ra thị trường thì giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt là giá do cơ quan thuế ấn định theo quy định của Luật quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Tổng cục Thuế trả lời để Cục thuế thành phố Cần Thơ được biết và hướng dẫn đơn vị thực hiện./.
Nơi nhận: | KT. TỔNG CỤC TRƯỞNG |