BỘ TÀI NGUYÊN VÀ | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 824/TCQLĐĐ-CĐKĐĐ | Hà Nội, ngày 17 tháng 4 năm 2020 |
Kính gửi: Ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương
Tổng cục Quản lý đất đai nhận được Công văn số 4651/UBND-VP ngày 31 tháng 12 năm 2019 của Ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương về việc đề nghị hướng dẫn xử lý vướng mắc việc xác định lại diện tích đất ở đối với thửa đất ở có vườn, ao (không có các văn bản, giấy tờ đính kèm Công văn), thực hiện ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc giao Lãnh đạo Tổng cục Quản lý đất đai ký văn bản hướng dẫn, Tổng cục có ý kiến như sau:
Việc xác định lại diện tích đất ở đối với thửa đất ở có vườn, ao đã được Tổng cục Quản lý đất đai trả lời Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Hải Dương tại Công văn số 2110/TCQLĐĐ-CĐKĐĐ ngày 01 tháng 11 năm 2019 về việc xác định lại diện tích đất ở đối với thửa đất có vườn ao (đính kèm Công văn số 2110/TCQLĐĐ-CĐKĐĐ).
Theo đó: “Theo quy định tại Điểm a Khoản 5 Điều 24 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai thì trường hợp hộ gia đình, cá nhân sử dụng thửa đất có vườn, ao gắn liền với nhà ở đã được cấp Giấy chứng nhận trước ngày 01 tháng 7 năm 2014 thì diện tích đất ở được xác định là diện tích ghi trên Giấy chứng nhận đã cấp; theo quy định tại Điểm b Khoản 5 Điều 24 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP thì việc xác định lại diện tích đất ở đối với trường hợp đã được cấp giấy chứng nhận trước ngày 01 tháng 7 năm 2014 được điều chỉnh đối với trường hợp tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận trước đây mà người sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại các Khoản 1, 2 và 3 Điều 100 của Luật Đất đai và Điều 18 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP. Do đó, việc Sở Tài nguyên và Môi trường đề xuất được áp dụng Điểm b Khoản 5 Điều 24 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP để công nhận lại diện tích đất ở cho các thửa đất có nguồn gốc sử dụng trước ngày 18/12/1980 mà hiện nay không còn giấy tờ về quyền sử dụng đất theo quy định tại Khoản 1 Điều 100 của Luật Đất đai, Điều 18 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP và Khoản 16 Điều 2 của Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06 tháng 01 năm 2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai là không có cơ sở để thực hiện”.
Việc quy định hạn mức công nhận đất ở đối với trường hợp không giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai mà đất đã sử dụng ổn định từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 thuộc trách nhiệm Ủy ban nhân dân tỉnh theo quy định tại Điều 103 của Luật Đất đai. Đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh căn cứ vào điều kiện, tập quán tại địa phương ban hành quy định hoặc điều chỉnh quy định hạn mức công nhận đất ở cho phù hợp.
Trên đây là ý kiến của Tổng cục Quản lý đất đai để Quý Ủy ban chỉ đạo, thực hiện theo quy định của pháp luật. Trường hợp quá trình thực hiện có vướng mắc thì đề nghị Ủy ban nhân dân Tỉnh báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định./.
| KT. TỔNG CỤC TRƯỞNG |
- 1 Công văn 36/TCQLĐĐ-CĐKĐĐ năm 2020 giải quyết vướng mắc trong xác định lại diện tích đất ở do Tổng cục Quản lý đất đai ban hành
- 2 Công văn 453/TCQLĐĐ-CĐKĐĐ năm 2020 về thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận trong trường hợp xác định lại diện tích đất ở do Tổng cục Quản lý đất đai ban hành
- 3 Công văn 491/TCQLĐĐ-CĐKĐĐ năm 2020 về xác định lại diện tích đất ở do Tổng cục Quản lý đất đai ban hành