TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 105/TANDTC-KHXX | Hà Nội, ngày 17 tháng 7 năm 2009 |
Kính gửi: Các Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp
Ngày 19-6-2009, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Bộ luật Hình sự và Nghị quyết số 33/2009/QH12 về việc thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Bộ luật Hình sự (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 33). Khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 33 đã quy định đường lối, chính sách xử lý đối với một số trường hợp cụ thể được áp dụng kể từ ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Bộ luật Hình sự được công bố (ngày 29-6-2009).
Để thi hành đúng các quy định tại Khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 33; trong khi chờ các cơ quan có thẩm quyền ban hành Thông tư liên tịch hướng dẫn thi hành; tham khảo các hướng dẫn tương ứng tại Thông tư liên tịch số 01/2000/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP-BCA ngày 12-6-2000 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Công an hướng dẫn thi hành Mục 3 Nghị quyết số 32/1999/QH10 ngày 21-12-1999 của Quốc hội và Nghị quyết số 229/2000/NQ-UBTVQH10 ngày 28-01-2000 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Toà án nhân dân tối cao tạm thời hướng dẫn một số Điểm sau đây:
1. Kể từ ngày 29-6-2009 khi xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, không áp dụng hình phạt tử hình đối với người phạm một trong các tội được quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 33 (không phân biệt hành vi phạm tội được thực hiện trước hay sau ngày 29-6-2009).
2. Trường hợp hình phạt tử hình đã tuyên trước ngày 29-6-2009 đối với người phạm một trong các tội được quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 33 và bản án đã có hiệu lực pháp luật, thì Chánh án Toà án đã xét xử sơ thẩm báo cáo ngay cho Chánh án Tòa án nhân dân tối cao để Chánh án Toà án nhân dân tối cao ra quyết định chuyển hình phạt tử hình xuống hình phạt tù chung thân đối với người bị kết án.
3. Kể từ ngày 29-6-2009 không xử lý về hình sự đối với người thực hiện một trong các hành vi được quy định tại các Điểm b, c và d Khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 33. Trường hợp vụ án đang trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hoặc phỳc thẩm, thì cần phân biệt như sau:
a) Trường hợp Viện kiểm sát có Công văn rút lại hồ sơ để Điều tra bổ sung làm rõ trách nhiệm hình sự của bị can mà Toà án cấp sơ thẩm xét thấy có căn cứ, thì Toà án áp dụng Điểm b Khoản 2 Điều 176 của Bộ luật tố tụng hình sự ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát;
b) Trường hợp Viện kiểm sát có Công văn (hoặc Quyết định ) rút quyết định truy tố và đề nghị Toà án đình chỉ vụ án, thì Thẩm phán được phân công làm chủ toạ phiên toà xét xử vụ án đó áp dụng Điểm đ Khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 33 và Điều 181 của Bộ luật tố tụng hình sự ra quyết định đình chỉ vụ án;
c) Trường hợp Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, thì Thẩm phán được phân công làm chủ toạ phiên toà (nếu trong thời hạn chuẩn bị xét xử) hoặc Hội đồng xét xử (nếu tại phiên toà sơ thẩm) áp dụng Điểm đ Khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 33, Điểm 2 Điều 107 và Điều 180 của Bộ luật tố tụng hình sự ra quyết định đình chỉ vụ án;
d) Trường hợp vụ án đang trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, thì Toà án cấp phúc thẩm phải mở phiên toà và Hội đồng xét xử áp dụng Điểm đ Khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 33, Điểm 2 Điều 107 và Điều 251 của Bộ luật tố tụng hình sự quyết định huỷ bản án sơ thẩm, tuyên bố bị cáo không phạm tội và đình chỉ vụ án;
đ) Cần chú ý rằng việc đình chỉ vụ án được hướng dẫn tại các Điểm b, c và d Mục 3 này chỉ là đình chỉ đối với các trường hợp được quy định tại các Điểm b, c và d Khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 33 về mặt hình sự, còn các vấn đề khác như trách nhiệm bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng... (kể cả việc xử lý hành chính, xử lý kỷ luật) hoặc xét xử về các tội phạm khác, các bị cáo khác trong vụ án (nếu có), thì vẫn được giải quyết theo thủ tục chung.
4. Việc miễn chấp hành hình phạt quy định tại Điểm đ Khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 33 được thực hiện như sau:
a) Đối với người đang chấp hành hình phạt tù, hình phạt cải tạo ở đơn vị kỷ luật của Quân đội, thì Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Toà án quân sự cấp quân khu nơi người bị kết án đang chấp hành hình phạt ra quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại theo đề nghị của cơ quan thi hành án phạt tù hoặc cơ quan thi hành hình phạt cải tạo ở đơn vị kỷ luật của Quân đội;
b) Đối với người đang chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, thì Chánh án Toà án nhân dân cấp huyện nơi người đó chấp hành hình phạt ra quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại theo đề nghị của cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương được giao trách nhiệm trực tiếp giám sát, giáo dục;
c) Đối với người đang chấp hành hình phạt cấm cư trú hoặc quản chế, thì Chánh án Toà án nhân dân cấp huyện, Chánh án Toà án quân sự khu vực nơi người đó chấp hành hình phạt ra quyết định miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú hoặc thời hạn quản chế còn lại theo đề nghị của chính quyền địa phương nơi người đó chấp hành hình phạt;
d) Đối với người đang chấp hành hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tước một số quyền công dân, thì Chánh án Toà án nhân dân cấp huyện, Chánh án Toà án quân sự khu vực nơi người đó cư trú hoặc làm việc ra quyết định miễn chấp hành thời hạn cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, thời hạn tước một số quyền công dân còn lại theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự khu vực nơi người đó cư trú hoặc làm việc;
đ) Đối với người bị xử phạt tù, xử phạt cải tạo ở đơn vị kỷ luật của Quân đội đang được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt, đang được hoãn chấp hành hình phạt hoặc chưa chấp hành hình phạt, thì Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Toà án quân sự cấp quân khu nơi người đó cư trú hoặc làm việc ra quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại hoặc miễn chấp hành toàn bộ hình phạt theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu nơi người đó cư trú hoặc làm việc;
e) Đối với người bị xử phạt bằng các hình phạt khác đang được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt, đang được hoãn chấp hành hình phạt hoặc chưa chấp hành hình phạt, thì Chánh án Toà án nhân dân cấp huyện, Chánh án Toà án quân sự khu vực nơi người đó cư trú hoặc làm việc ra quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại hoặc miễn chấp hành toàn bộ hình phạt theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự khu vực nơi người đó cư trú hoặc làm việc.
g) Khi xem xét, quyết định việc miễn chấp hành hình phạt cần chú ý một số vấn đề sau đây:
g.1) Điểm đ Khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 33/2009/QH12 của Quốc hội chỉ quy định việc miễn chấp hành hình phạt (cả hình phạt chính và hình phạt bổ sung), còn đối với các vấn đề khác đối với họ, như trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trả lại tài sản, xử lý vật chứng...., thì họ vẫn phải thi hành;
g.2) Trường hợp một người bị kết án về nhiều tội (trong cùng một bản án hoặc trong nhiều bản án), trong đó có tội mà Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Bộ luật Hình sự không quy định là tội phạm nữa, thì việc miễn chấp hành hình phạt đối với tội này được thực hiện như sau:
- Nếu người bị kết án chưa chấp hành hình phạt hoặc đang chấp hành hình phạt nhưng thời gian đã chấp hành hình phạt chưa vượt quá mức hình phạt mà Toà án đã xử phạt đối với tội không thuộc trường hợp quy định tại các Điểm b, c và d Khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 33, thì họ được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt đối với tội mà Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Bộ luật Hình sự không quy định là tội phạm nữa.
Ví dụ 1: Nguyễn Văn T bị Toà án xử phạt 1 năm tù về tội “sử dụng trái phép chất ma tuý” và 2 năm tù về tội “giao cấu với trẻ em”, tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 3 năm tù; nếu Nguyễn Văn T chưa chấp hành hình phạt tù hoặc đang chấp hành hình phạt tù, nhưng thời gian đã chấp hành hình phạt tù chưa quá 2 năm, thì Nguyễn Văn T được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt 1 năm tù đối với tội “sử dụng trái phép chất ma tuý”.
- Nếu người bị kết án đã chấp hành một phần hình phạt hoặc đang chấp hành hình phạt nhưng thời gian đã chấp hành hình phạt bằng hoặc vượt quá mức hình phạt mà Toà án đã xử phạt đối với tội không thuộc trường hợp quy định tại các Điểm b, c và d Khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 33, thì họ được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại.
Ví dụ 2: Nếu trong ví dụ 1 trên đây, Nguyễn Văn T đã chấp hành hình phạt tù bằng hoặc quá 2 năm, thì Nguyễn Văn T được miễn chấp hành phần hình phạt tù còn lại.
5. Khi đình chỉ vụ án cũng như miễn chấp hành hình phạt, thì Toà ỏn ra quyết định đình chỉ hoặc quyết định miễn chấp hành hình phạt cần giải thích cho người được đình chỉ vụ án hoặc được miễn chấp hành hình phạt biết là việc đình chỉ hoặc miễn chấp hành hình phạt này là do chính sách hình sự mới nhân đạo của Nhà nước ta, chứ không phải oan sai do cơ quan tiến hành tố tụng gây ra; do đó, họ không có quyền đòi yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 620 của Bộ luật dân sự và theo Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11 ngày 17-3-2003 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội “về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra”.
6. Đối với các đối tượng được quy định tại các Điểm b, c, d và đ Khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 33 mà đang bị truy nã, thì Toà án đó ra quyết định đình chỉ vụ án hoặc miễn chấp hành hình phạt đồng thời phải thông báo cho cơ quan đã ra quyết định truy nã biết để cơ quan này ra quyết định đình nã, nếu họ không bị truy nã về hành vi phạm tội khác.
7. Đối với người bị kết án thuộc trường hợp quy định tại Điểm đ Khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 33, nếu họ có yêu cầu, thì Chánh án Toà án đã xét xử sơ thẩm vụ án đối với họ cấp giấy chứng nhận xoá án tích cho họ.
Toà án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí Chánh án Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp; các đồng chí Chánh toà các Toà phúc thẩm, Toà hình sự và Thủ trưởng các đơn vị liên quan của Toà án nhân dân tối cao nhận được Công văn này cần tổ chức triển khai quán triệt trong cơ quan, đơn vị mình nhằm bảo đảm cho việc thi hành đúng và thống nhất Khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 33 của Quốc hội.
Trong quá trình thực hiện nếu có vấn đề gì vướng mắc cần được giải thích, hướng dẫn bổ sung thì kịp thời phản ánh cho Toà án nhân dân tối cao để có sự giải thích, hướng dẫn bổ sung.
Nơi nhận: | KT. CHÁNH ÁN |
- 1 Nghị quyết số 33/2009/QH12 về thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự do Quốc hội ban hành
- 2 Bộ luật hình sự sửa đổi 2009
- 3 Bộ luật Dân sự 2005
- 4 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003
- 5 Thông tư liên bộ 01/2000/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP-BCA hướng dẫn thi hành Mục 3 Nghị quyết 32/1999/QH10 và Nghị quyết 229/2000/NQ-UBTVQH10 về việc thi hành Bộ luật Hình sự do Bộ Tòa án nhân dân tối cao - Bộ Tư pháp - Bộ công an ban hành
- 6 Nghị quyết số 229/2000/NQ-UBTVQH10 về việc triển khai thực hiện Mục 3 Nghị quyết của Quốc hội "Về việc thi hành Bộ luật Hình sự" do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành
- 7 Nghị quyết số 32/1999/NQ-QH10 về việc thi hành Bộ luật Hình sự do Quốc Hội ban hành