BỘ XÂY DỰNG | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 114/BXD–XL | Hà Nội, ngày 18 tháng 01 năm 2008 |
Kính gửi: Công ty TNHH đầu tư dịch vụ Kiến Á
Bộ Xây dựng nhận được văn bản số 09/CV ngày 28/12/2007 của Công ty TNHH đầu tư dịch vụ Kiến Á về việc cấp phép xây dựng cho dự án Khu cao ốc căn hộ Công viên Thịnh Vượng (Blooming Park) tại phường An Phú, quận 2, thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi nghiên cứu, Bộ Xây dựng có ý kiến như sau:
1. Theo quy định tại điểm c khoản 9 Điều 1 Nghị định 112/2006/NĐ-CP ngày 29/9/2006 của Chính phủ về sửa đổi một số điều của Nghị định 16/2005/NĐ-CP ngày 07/02/2005 của Chính phủ về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình thì ”công trình xây dựng thuộc dự án khu đô thị, khu công nghiệp, khu nhà ở có quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 đã được cơ quan nhà nước cơ thẩm quyền phê duyệt” thì không phải xin giấy phép xây dựng.
Căn cứ giải trình của Công ty và các tài liệu gửi kèm theo cho thấy, dự án Khu cao ốc căn hộ Công viên Thịnh Vượng (Blooming Park) là dự án thứ phát thuộc dự án Khu đô thị phát triển An Phú, quận 2, thành phố Hồ Chí Minh đã có quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 được UBND quận 2, thành phố Hồ Chí Minh phê duyệt (Quyết định số 9466/QĐ-UBND ngày 09/12/2007). Như vậy, đối chiếu với quy định nêu trên thì dự án Khu cao ốc căn hộ Công viên Thịnh Vượng (Blooming Park) thuộc diện không phải xin giấy phép xây dựng.
Để khởi công xây dựng công trình, chủ đầu tư phải có đủ các điều kiện theo quy định tại Điều 72 Luật Xây dựng (ban hành năm 2003, có hiệu lực từ ngày 01/7/2004). Đối chiếu với các quy định theo Điều 72 nêu trên và căn cứ các tài liệu của Công ty cho thấy, để có đủ điều kiện khởi công xây dựng công trình theo quy định, Công ty cần phải hoàn thiện thêm các việc:
- Phê duyệt thiết kế bản vẽ thi công của hạng mục công trình sẽ khởi công,
- Ký kết hợp đồng xây dựng với nhà thầu thi công xây dựng.
2. Do dự án phát triển nhà ở cũng như dự án khu đô thị mới có đặc thù riêng so với các dự án đầu tư xây dựng công trình khác, bởi vì trong đó có hai nội dung quan trọng thuộc trách nhiệm và quyền hạn của Nhà nước là quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 và cơ chế đầu tư (bao gồm: Cơ chế sử dụng và nộp tiền sử dụng đất, cơ chế đầu tư các công trình hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội, phương án đền bù giải phóng mặt bằng, cơ chế quản lý dự án sau đầu tư, cam kết về cung cấp và quản lý các dịch vụ đô thị,...). Như vậy, Nhà đầu tư muốn đầu tư dự án phát triển nhà ở, trước tiên phải lập quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 và trình Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền phê duyệt. Sau khi có quy hoạch được duyệt, Chủ đầu tư lập dự án đầu tư, trong đó có đề xuất cơ chế đầu tư. Trên cơ sở quy hoạch được duyệt và cơ chế đầu tư được UBND cấp tỉnh chấp thuận thì việc quyết định bỏ tiền đầu tư thuộc thẩm quyền của Chủ đầu tư.
Do đó, để đảm bảo tính thống nhất của công tác quản lý nhà nước và hiệu quả của dự án phát triển nhà ở, cần phải có hai cơ quan phê duyệt: Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền phê duyệt quy hoạch, chấp thuận về cơ chế đầu tư; Chủ đầu tư phê duyệt quyết định đầu tư.
Trên đây là ý kiến của Bộ Xây dựng, đề nghị Công ty TNHH đầu tư dịch vụ Kiến Á nghiên cứu, đối chiếu với các quy định hiện hành và liên hệ với cơ quan quản lý về xây dựng tại địa phương để được hướng dẫn, triển khai dự án theo đúng quy định./.
Nơi nhận: | KT. BỘ TRƯỞNG |
- 1 Công văn số 2451/BXD-KSTK về việc trả lời UBND TP Hà Nội về phê duyệt thiết kế và thi công từng phần hạng mục công trình do Bộ Xây dựng ban hành
- 2 Nghị định 112/2006/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 16/2005/NĐ-CP về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình
- 3 Nghị định 16/2005/NĐ-CP về việc quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình
- 4 Luật xây dựng 2003