Hệ thống pháp luật

Đại diện giữa vợ và chồng theo Luật hôn nhân và gia đình 2014

Ngày gửi: 14/01/2020 lúc 23:02:24

Mã số: HTPL35692

Câu hỏi:

Đại diện giữa vợ và chồng theo Luật hôn nhân và gia đình 2014. Quy định pháp luật về quan hệ vợ chồng và đại diện giữa vợ và chồng.

Câu trả lời tham khảo:

Hệ thống pháp luật Việt Nam (hethongphapluat.com) xin chân thành cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến chúng tôi. Sau khi nghiên cứu, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi xin đưa ra câu trả lời có tính chất tham khảo như sau:

Trên cơ sở bình đẳng, quyền tự do công dân, đảm bảo các quyền và lợi ích của các chủ thể pháp luật ngay cả khi họ không trực tiếp tham gia được các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại, lao động,… và các quan hệ xã hội khác. Xuất phát từ nguyên tắc tự do cam kết, thỏa thuận trong luật dân sự do khuôn khổ pháp luật mà các cá nhân có thể tựu do thỏa thuận giúp đỡ nhau và thỏa mãn lợi ích của nhau. Theo đó quyền bình đẳng giữa vợ và chồng được pháp luật công nhận và bảo vệ. Vợ và chồng có quyền đại diện cho nhau và đại diện cho gia đình theo pháp luật và theo ủy quyền.

Nghĩa vụ đại diện giữa vợ và chồng là việc vợ, chồng thay mặt người kia khi người kia mất NLHVDS hoặc hạn chế NLHVDS  hoặc một số trường hợp khác thực hiện trên giấy tờ chỉ đứng tên vợ hoặc chồng được giới hạn người đứng tên trên giấy tờ được phép đại diện.

Thứ nhất, Luật hôn nhân và gia đình 2014 là quy định cụ thể về các căn cứ xác lập đại diện giữa vợ và chồng như sau:

“1. Việc đại diện giữa vợ và chồng trong xác lập, thực hiện, chấm dứt giao dịch được xác định theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

2. Vợ, chồng có thể ủy quyền cho nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch mà theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng.

3. Vợ, chồng đại diện cho nhau khi một bên mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có đủ điều kiện làm người giám hộ hoặc khi một bên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà bên kia được Tòa án chỉ định làm người đại diện theo pháp luật cho người đó, trừ trường hợp theo quy định của pháp luật thì người đó phải tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ có liên quan.”

Trong trường hợp một bên vợ, chồng mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn thì căn cứ vào quy định về giám hộ trong Bộ luật dân sự, Tòa án chỉ định người khác đại diện cho người bị mất năng lực hành vi dân sự để giải quyết việc ly hôn.

Trường hợp một bên vợ, chồng mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn thì căn cứ vào quy định về giám hộ trong Bộ luật dân sự, Tòa án chỉ định người khác đại diện cho người bị mất năng lực hành vi dân sự để giải quyết việc ly hôn.

Thứ hai, khoản 1 Điều 25 Luật hôn nhân và gia đình có quy định và vieehc đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh: “Trường hợp vợ, chồng kinh doanh chung thì người trực tiếp kinh doanh là người đại diện cho bên kia trong quan hệ kinh doanh đó, trừ trường hợp trước khi tham gia quan hệ kinh doanh, vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc Luật này và các luật liên quan có quy định khác.”

Trường hợp vợ chồng có thỏa thuận bằng văn bản về việc một bên đưa tài sản chung vào kinh doanh thì người này có quyền tự mình thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản chung đó.

>>> Lut sư tư vn pháp lut trc tuyến qua tng đài: 024.6294.9155

Luật hôn nhân và gia đình 2014 còn quy định về đại diện giữa vợ và chồng trong xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch liên quan đến tài sản chung có giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản chỉ ghi tên vợ hoặc chồng. Trường hợp vợ hoặc chồng có tên trên giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản tự mình xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch với người thứ ba trái với quy định về đại diện giữa vợ và chồng của Luật hôn nhân và gia đình 2014 thì giao dịch đó vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình được bảo vệ quyền lợi theo quy định của pháp luật.

Bạn có thể tham khảo thêm một số bài viết có liên quan khác của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam:        

– Người có quyền yêu cầu giải quyết ly hôn

– Bình đẳng giới giữa bé trai và bé gái trong gia đình

–Không trả lại con cho người có quyền nuôi dưỡng có vi phạm không?

Hy vọng rằng sự tư vấn của chúng tôi sẽ giúp bạn lựa chọn phương án thích hợp nhất để giải quyết những vướng mắc của bạn. Nếu còn bất cứ thắc mắc gì liên quan đến sự việc bạn có thể liên hệ Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7 của Luật sư: 024.6294.9155  để được giải đáp.

——————————————————–

THAM KHẢO CÁC DỊCH VỤ CÓ LIÊN QUAN CỦA Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam:

– Luật sư tư vấn luật trực tuyến qua tổng đài

– Số điện thoại tư vấn pháp luật miễn phí

Trên đây là câu trả lời của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam liên quan đến yêu cầu câu hỏi của bạn. Hy vọng câu trả lời của chúng tôi sẽ hữu ích cho bạn.

Nếu có bất cứ vướng mắc gì về pháp lý mời bạn tiếp tục đặt câu hỏi. Chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp.

Trân trọng cảm ơn.

BBT.Hệ Thống Pháp Luật Việt nam

Lưu ý: Nội dung tư vấn của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam trên đây chỉ mang tính tham khảo. Tùy vào từng thời điểm và đối tượng khác nhau mà nội dung tư vấn trên có thể sẽ không còn phù hợp do sự thay đổi của chính sách hay quy định mới của pháp luật.

Gửi yêu cầu tư vấn