Hệ thống pháp luật

Đòi lại tiền đặt cọc khi bên dịch vụ thay đổi đơn hàng đi lao động ở nước ngoài

Ngày gửi: 07/08/2015 lúc 23:02:24

Mã số: HTPL37644

Câu hỏi:

Thưa luật sư ! Tôi có một việc muốn hỏi luật sư , xin luật sư tư vấn giúp . Trong tháng 5/2016 ( dương lịch ) , chồng tôi có đăng ký đi lao phổ thông bên Đài Loan của công ty Tân Nhật Hưng Dragon (Hà Nội ) và bên công ty yêu cầu đặt cọc 1.000USD ( có biên lai nhận tiền ) , đơn hàng 2 bên thỏa thuận là OK và phía công ty báo chồng tôi đợi làm thủ tục VISA trong thời gian 1 tuần là bay .Nhưng đợi đến 3 tuần không có tin tức gì và chồng tôi thấy sốt ruột lên công ty hỏi thì anh ấy nhận đc kết quả thay đổi đơn hàng từ Thực Phẩm sang làm Mái lợp tôn , chính vì lý do thay đổi đơn hàng này không có sự báo trước cho người lao động mà đợi chồng tôi lên hỏi mới thông báo chuyển đơn hàng vì vậy chồng tôi báo do lỗi của công ty và sẽ không đi nữa và công ty lại hướng cho chồng tôi sang 1 số đơn khác để líu kéo nhưng chồng tôi vẫn quyết định không đi nữa vì lý do công ty làm an không có sự minh bạch .Và chồng tôi yêu cầu rút hồ sơ , bây giờ công ty bắt chờ đợi để giải quyết hồ sơ nhưng vẫn chưa có thời gian hẹn cụ thể nhưng vì điều kiện công việc chồng tôi muốn có 1 cái hẹn cụ thể và muốn lấy lại tiền và giấy tờ để lo công việc mới nhưng công ty lại báo sẽ bị phạt 500USD Vậy thưa luật sư, với tình huống trên thì sẽ sử lý như thế nào và chúng tôi có phải chịu phạt 500USD hay không , xin luật sư tư vấn giúp để chúng tôi hiểu rõ hơn luật này ?

Câu trả lời tham khảo:

Hệ thống pháp luật Việt Nam (hethongphapluat.com) xin chân thành cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến chúng tôi. Sau khi nghiên cứu, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi xin đưa ra câu trả lời có tính chất tham khảo như sau:

* Cơ sở pháp luật:

– Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2006;

– Bộ luật lao động 2012;

– Bộ luật dân sự 2005;

Thông tư 21/2007/TT-BLĐTBXH của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội : Hướng dẫn chi tiết một số điều của Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và Nghị định số 126/2007/NĐ-CP ngày 01 tháng 8 năm 2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.

* Nội dung:

Thứ nhất, theo thông tin bạn cung cấp thì chồng bạn có đăng ký đi lao động phổ thông ở Đài Loan của công ty Tân Nhật Hưng Dragon, có đặt cọc 1.000USD có biên lai nhận tiền, đơn hàng hai bên đã thỏa thuận là đơn hàng Thực phẩm và được phía bên công ty thông báo thời hạn sau một tuần để làm thủ tục VISA và sẽ bắt đầu đi làm trường hợp này có thể hiểu giữa chồng bạn và công ty Tân Nhật Hưng Dragon đã ký hợp đồng. Hợp đồng được thực hiện giữa chồng bạn với công ty đó là hợp đồng thuộc khoản 1 Điều 6 Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2006 quy định: 

“1. Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài với doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, tổ chức sự nghiệp được phép hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài.”. 

Tại khoản 3 Điều 3 Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2006 có giải thích như sau: “Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp với người lao động về quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài.”

Mặc dù bạn không cung cấp thông tin rõ sự thỏa thuận giữa bạn và công ty có lập thành văn bản hay không nhưng hợp đồng cũng được xác lập bằng hình thức miệng (qua lời nói) hoặc bằng hành vi và có hiệu lực kể từ thời điểm hai bên thực hiện. Từ những quy định trên thì chồng bạn và công ty phải thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ đã thỏa thuận.

Theo thông tin bạn đưa ra thì sau khi đặt cọc và thỏa thuận đơn hàng từ Thực phẩm thì công ty có thông báo cho chồng bạn sau một tuần chờ đợi làm thủ tục VISA và sẽ bay sang Đài Loan để đi làm. Tuy nhiên, quá thời hạn thông báo (quá 2 tuần) nhưng chồng bạn vẫn chưa được đi làm, cũng không được thông báo trước về lý do chậm trễ này, cũng không được thông báo về sự thay đổi nội dung công việc mà hai bên đã thỏa thuận trước đó (từ Thực phẩm sang Lợp mái tôn). Từ những vấn đề trên có thể thấy công ty đã vi phạm nghĩa vụ thực hiện hợp đồng, lỗi là do phía bên công ty.

Và theo điểm c khoản 1 Mục 5 Thông tư 21/2007/TT-BLĐTBXH quy định như sau:

“c) Doanh nghiệp dịch vụ phải cam kết với người lao động về thời gian chờ xuất cảnh sau khi người lao động trúng tuyển đi làm việc ở nước ngoài.

Trong thời gian doanh nghiệp dịch vụ đã cam kết, nếu người lao động không có nhu cầu đi làm việc ở nước ngoài nữa thì doanh nghiệp dịch vụ phải trả lại hồ sơ cho người lao động và người lao động phải chịu các khoản chi phí mà doanh nghiệp dịch vụ đã chi (nếu có) để làm thủ tục cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài, gồm: chi phí làm hồ sơ, khám sức khỏe, học phí bồi dưỡng kiến thức cần thiết, chi phí tài liệu học tập, ăn, ở trong thời gian đào tạo bồi dưỡng kiến thức cần thiết, chi phí làm thủ tục nhập cảnh (visa).

Nếu quá thời gian đã cam kết mà doanh nghiệp dịch vụ vẫn chưa đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài thì phải thông báo rõ lý do cho người lao động. Trường hợp người lao động không có nhu cầu đi làm việc ở nước ngoài nữa thì trong thời hạn mười lăm ngày kể từ này người lao động thông báo không có nhu cầu đi làm việc ở nước ngoài, doanh nghiệp dịch vụ phải hoàn trả cho người lao động hồ sơ, các khoản chi phí mà người lao động đã nộp cho doanh nghiệp, gồm: chi phí làm hồ sơ, học phí bồi dưỡng kiến thức cần thiết, chi phí làm thủ tục nhập cảnh (visa), vé máy bay, tiền dịch vụ, tiền môi giới và làm thủ tục hoàn trả tiền ký quỹ cho người lao động.”

Từ quy định trên và do phía công ty vi phạm nghĩa vụ hợp đồng nên nếu chồng bạn không có nhu cầu đi làm việc ở nước ngoài nữa thì doanh nghiếp sẽ phải trả lại hồ sơ cho bạn và bạn sẽ không phải chịu các khoản chi phí mà doanh nghiệp đã chi (nếu có).

Thứ hai, về khoản tiền đặt cọc 1.000 USD.

“1. Đặt cọc là việc một bên giao cho bên kia một khoản tiền hoặc kim khí quí, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng dân sự.

Việc đặt cọc phải được lập thành văn bản.

2. Trong trường hợp hợp đồng dân sự được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng dân sự thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng dân sự thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thoả thuận khác.”

Theo bạn cung cấp thì chồng bạn đặt cọc 1.000 USD có biên lai, tuy nhiên theo quy định trên thì việc thỏa thuận đặt cọc sẽ phải lập thành văn bản. Do đó, giữa chồng bạn và công ty chỉ có thỏa thuận bằng miệng mà không lập thành văn bản thì thỏa thuận 1.000 USD này bị vô hiệu do vi phạm về hình thức của hợp đồng và hai bên sẽ phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Do vậy, khi chồng bạn không đi xuất khẩu lao động thì công ty có nghĩa vụ phải hoàn trả số tiền 1.000 USD mà chồng bạn đã đặt cọc.

Hơn nữa, theo Điều 20 Bộ luật lao động 2012 quy định:

“Điều 20. Những hành vi người sử dụng lao động không được làm khi giao kết, thực hiện hợp đồng lao động.

1. Giữ bản chính giấy tờ tùy thân, văn bằng, chứng chỉ của người lao động;

2. Yêu cầu người lao động phải thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tiền hoặc tài sản khác cho việc thực hiện hợp đồng.”

Căn cứ quy định này, người sử dụng lao động không được yêu cầu người lao động thực hiện biện pháp bảo đảm bằng việc đặt tiền cho việc thực hiện hợp đồng lao động.

 >>> Luật sư tư vấn pháp luật lao động qua tổng đài: 024.6294.9155

Thứ ba, căn cứ theo điểm c, khoản 1 Mục 5 Thông tư 21/2007/TT-BLĐTBXH và do công ty vi phạm nghĩa vụ thực hiện hợp đồng, việc đặt cọc bị vô hiệu nên chồng bạn sẽ không phải chịu phạt 500 USD theo phía công ty yêu cầu. Trong trường hợp công ty không hoàn trả lại số tiền cho chồng bạn thì chồng bạn có thể thực hiện khiếu nại như sau:

Theo Điều 5 Nghị định 119/2014/NĐ-CP quy định:

Nội dung của hợp đồng đặt cọc? Hình thức của hợp đồng đặt cọc?

“Điều 5. Trình tự khiếu nại

1. Khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi của người sử dụng lao động; tổ chức, cá nhân dạy nghề; tổ chức, cá nhân đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng là trái pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì người khiếu nại thực hiện khiếu nại đến người giải quyết khiếu nại lần đầu theo quy định tại Khoản 1 Điều 15, Khoản 1 Điều 16, Khoản 1 Điều 17 Nghị định này.

2. Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại theo quy định tại Khoản 1 Điều này hoặc quá thời hạn quy định tại Điều 19 Nghị định này mà khiếu nại không được giải quyết thì người khiếu nại thực hiện khiếu nại lần hai theo quy định sau đây:

c) Đối với khiếu nại về hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theohợp đồng, người khiếu nại thực hiện khiếu nại đến người giải quyết khiếu nại quy định tại Khoản 2 Điều 17 Nghị định này.

3. Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại theo quy định tại Khoản 2 Điều này hoặc quá thời hạn quy định tại Điều 27 Nghị định này thì người khiếu nại có quyền khiếu nại theo quy định của Luật Khiếu nại và văn bản liên quan hoặc khởi kiện vụ án tại Tòa án theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 10 Nghị định này.”

Điều 17 Nghị định 119/2014/NĐ-CP quy định như sau:

“Điều 17. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại về hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng

1. Người đứng đầu tổ chức đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định, hành vi của mình bị khiếu nại.

2. Cục trưởng Cục Quản lý lao động ngoài nước có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai đối với khiếu nại về hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng khi người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết lần đầu theo quy định tại Khoản 1 Điều này hoặc đã hết thời hạn quy định tại Điều 19 Nghị định này mà khiếu nại không được giải quyết.”

Như vậy, khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi của tổ chức, cá nhân đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng là trái pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì chồng bạn có thể thực hiện khiếu nại lần đầu lên người đứng đầu tổ chức đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Nếu sau khi giải quyết lần đầu không đồng ý với quyết định đó hoặc là quá hạn mà vẫn không được giải quyết thì chồng bạn khiếu nại đến Cục trưởng Cục quản lý lao động nước ngoài có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai. Nếu vẫn không đồng ý với quyết định giải quyết đó thì chồng bạn có thể kiện ra Tòa án để được giải quyết.

Trên đây là câu trả lời của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam liên quan đến yêu cầu câu hỏi của bạn. Hy vọng câu trả lời của chúng tôi sẽ hữu ích cho bạn.

Nếu có bất cứ vướng mắc gì về pháp lý mời bạn tiếp tục đặt câu hỏi. Chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp.

Trân trọng cảm ơn.

BBT.Hệ Thống Pháp Luật Việt nam

Lưu ý: Nội dung tư vấn của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam trên đây chỉ mang tính tham khảo. Tùy vào từng thời điểm và đối tượng khác nhau mà nội dung tư vấn trên có thể sẽ không còn phù hợp do sự thay đổi của chính sách hay quy định mới của pháp luật.

Gửi yêu cầu tư vấn