HỢP TÁC VỀ NUÔI CON NUÔI GIỮA NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ NƯỚC CỘNG HOÀ PHÁP
Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hoà Pháp (sau đây gọi là các nước ký kết).
Công nhận rằng, để phát triển hài hoà nhân cách của mình, trẻ em cần được trưởng thành trong môi trường gia đình, trong bầu không khí hạnh phúc, yêu thương và thông cảm.
Thừa nhận rằng mỗi Nước ký kết cần ưu tiên áp dụng các biện pháp thích hợp để trẻ em được chăm sóc trong môi trường gia đình và đảm bảo cho những trẻ em không có gia đình được chăm sóc trong môi trường thay thế gia đình.
Công nhận rằng việc nuôi con nuôi quốc tế có lợi là đem lại một gia đình ổn định cho trẻ em trong trường hợp không thể tìm được gia đình thích hợp cho trẻ em đó ở ngay tại nước mình.
Mong muốn thực hiện những biện pháp hợp tác nhằm bảo đảm việc những người thường trú trên lãnh thổ của Nước ký kết này xin nhận trẻ em là công dân của Nước ký kết kia và thường trú trên lãnh thổ của nước ký kết đó làm con nuôi được tiến hành trên cơ sở tôn trọng những nguyên tắc và giá trị cơ bản của mỗi Nước ký kết, tôn trọng Công ước của Liên hợp quốc ngày 20/11/1989 về quyền trẻ em, đặc biệt là các quy định về đảm bảo lợi ích tốt nhất cho trẻ em, tôn trọng các quyền cơ bản của trẻ em, phòng ngừa mọi hành vi bắt cóc, mua bán trẻ em và thu lợi vật chất bất hợp pháp từ việc này.
Căn cứ Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự giữa nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hoà Pháp ký tại Pari ngày 24 tháng 2 năm 1989.
Đã quyết định ký kết Hiệp định này
Để thực hiện mục đích đó
Chủ tịch nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cử
Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Đình Lộc
Tổng thống nước Cộng hoà Pháp cử
Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Cộng hoà Pháp tại Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam SERGE DEGALEAIX.
Làm đại diện toàn quyền của mình.
Các đại diện toàn quyền, sau khi trao đổi giấy uỷ quyền hợp thức, đã thoả thuận những điều dưới đây:
2- Hiệp định này được áp dụng đối với việc nuôi con nuôi là trẻ em trong độ tuổi giới hạn cho làm con nuôi do pháp luật của mỗi nước ký kết quy định.
Các cơ quan Trung ương cũng thông tin cho nhau về tình hình thực hiện Hiệp định này và tiến hành những biện pháp cần thiết để giải quyết những khó khăn trong việc thực hiện Hiệp định này.
2- Trong trường hợp pháp luật của Nước ký kết nơi Người xin nhận con nuôi thường trú quy định một hình thức nuôi con nuôi đòi hỏi phải có quyết định mới về việc nuôi con nuôi, thì quyết định đó thuộc thẩm quyền của cơ quan Nhà nước của Nước ký kết nơi Người xin nhận con nuôi thường trú.
THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VIỆC NUÔI CON NUÔI
a) Người xin nhận con nuôi có đủ các điều kiện cần thiết cho việc nuôi con nuôi;
b) Người xin nhận con nuôi đã có đủ những thông tin tư vấn cần thiết cho việc nuôi con nuôi, đặc biệt là những thông tin về môi trường gia đình và xã hội ở Nước ký kết mà trẻ em là công dân.
2- Trong trường hợp xét thấy Người xin nhận con nuôi có đủ các điều kiện cần thiết cho việc nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật nước mình, Cơ quan Trung ương của nước tiếp nhận chuyển cho cơ quan trung ương của Nước ký kết mà trẻ em là công dân hồ sơ xin nhận con nuôi, đồng thời lập một văn bản gửi kèm theo hồ sơ bao gồm những thông tin về Người xin nhận con nuôi như sau:
a) Họ và tên, ngày tháng năm sinh, Hộ chiếu/ Chứng minh nhân dân, nơi thường trú, nghề nghiệp, địa chỉ liên hệ;
b) Tình trạng năng lực hành vi dân sự;
c) Khả năng đảm bảo việc nuôi con nuôi (khả năng kinh tế, hoàn cảnh nhân thân, gia đình, tình trạng sức khoẻ, môi trường xã hội ...).
d) Lý do xin nhận nuôi con nuôi;
e) Nguyện vọng về trẻ em muốn xin nhận làm con nuôi (độ tuổi, giới tính và những đặc điểm khác) mà Người xin nhận con nuôi thấy thích hợp.
3- Hồ sơ xin nhận con nuôi phải đáp ứng đầy đủ yêu cầu do pháp luật của các Nước ký kết quy định. Hồ sơ phải kèm theo bản dịch, có chứng thực hợp lệ, ra ngôn ngữ của Nước ký kết mà trẻ em là công dân. Chi phí cho việc dịch hồ sơ do Người xin nhận con nuôi chịu.
a) Trẻ em được giới thiệu làm con nuôi thuộc diện được pháp luật cho phép làm con nuôi;
b) Sau khi xem xét các khả năng nuôi dưỡng ở trong nước, thì thấy việc cho trẻ em đó làm con nuôi người nước ngoài là biện pháp thích hợp nhất cho lợi ích của trẻ em đó;
c) Có sự đồng ý của những cá nhân hoặc tổ chức có quyền có ý kiến về việc cho trẻ em đó làm con nuôi;
d) Những cá nhân hoặc tổ chức nói tại điểm c, khoản 1 Điều này đã được thông báo đầy đủ về các hình thức nuôi con nuôi khác nhau theo pháp luật của nước tiếp nhận, cũng như về hệ quả pháp lý của mỗi hình thức nuôi con nuôi đó và đã đồng ý rõ ràng bằng văn bản về việc cho nhận con nuôi.
c) Không có yêu cầu phải trả bất cứ một khoản tiền hay một sự đền bù nào cho việc đồng ý cho trẻ em làm con nuôi nói tại điểm c và điểm d, khoản 1 Điều này.
2. Trong trường hợp xét thấy có thể cho trẻ em làm con nuôi, Cơ quan Trung ương của nước gốc chuyển hồ sơ cho cơ quan có thẩm quyền của nước mình kèm theo công văn trong đó xác nhận đã có đầy đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều này và cho ý kiến về việc giải quyết hồ sơ đó.
Cơ quan Trung ương của nước gốc gửi bản sao công văn nói trên do cơ quan Trung ương của nước tiếp nhận.
a) Họ và tên, giới tính, ngày tháng năm sinh, nơi cư trú;
b) Khả năng được nhận làm con nuôi;
c) Hoàn cảnh cá nhân, môi trường xã hội và gia đình;
d) Tình trạng sức khoẻ;
e) Các nhu cầu, sở thích đặc biệt khác của trẻ em, nêu có ;
Người xin nhận con nuôi phải trả lời cơ quan có thẩm quyền của nước gốc trong thời hạn sớm nhất và gửi bản sao ý kiến trả lời đó cho Cơ quan Trung ương của nước tiếp nhận.
Cho đến khi nhận được ý kiến trả lời của Người xin nhận con nuôi, trẻ em đã được giới thiệu cho người đó thì không được giới thiệu cho người khác.
1. Quyết định cho nhận con nuôi và việc giao nhận con nuôi được thực hiện theo pháp luật của nước gốc.
2. Các cơ quan Trung ương của hai nước ký kết đảm bảo tạo mọi điều kiện thuận lợi cho trẻ em được xuất cảnh nước gốc, cũng như được nhập cảnh và thường trú trên lãnh thổ của nước tiếp nhận.
3. Cơ quan Trung ương của nước tiếp nhận thông báo cho cơ quan Trung ương của nước gốc về những quyết định cho nuôi con nuôi của cơ quan có thẩm quyền quy định tại khoản 2 Điều 7 của Hiệp định này và gửi kèm theo bản sao những quyết định đó.
Tuy nhiên, việc công nhận có thể bị từ chối, nếu xét thấy việc nuôi con nuôi trái với những nguyên tắc và giá trị cơ bản của Nước ký kết được yêu cầu. Trong trường hợp này, Nước ký kết được yêu cầu thông báo bằng văn bản cho nước ký kết kia; Các nước ký kết cùng nhau bàn bạc biện pháp giải quyết để bảo vệ quyền lợi của trẻ em đã cho làm con nuôi.
2. Trong trường hợp xét thấy việc tiếp tục để trẻ em trong gia đình cha mẹ nuôi không còn đáp ứng được lợi ích tốt nhất cho trẻ em đó, Cơ quan Trung ương của nước tiếp nhận đảm bảo sẽ áp dụng mọi biện pháp cần thiết để bảo vệ trẻ em đó. Sau khi tham khảo ý kiến của cơ quan Trung ương của nước gốc, Cơ quan Trung ương của nước tiếp nhận sẽ thu xếp cho trẻ em đó có một môi trường khác thuận lợi cho sự phát triển của trẻ em.
2. Cơ quan trung ương của nước tiếp nhận thực hiện những biện pháp thích hợp, trên cơ sở tôn trọng pháp luật của nước mình, để cung cấp thông tin về một tình trạng nuôi con nuôi cụ thể, theo yêu cầu có nêu rõ lý do của Cơ quan Trung ương của nước gốc.
3. Cơ quan Trung ương cuả nước gốc chỉ sử dụng những thông tin được cung cấp nhằm mục đích bảo vệ lợi ích tốt nhất cho trẻ em.
2. Nhóm công tác hỗn hợp họp định kỳ mỗi năm một lần, lần lượt ở mỗi nước ký kết, để xem xét, đánh giá việc thực hiện Hiệp định này và đưa ra các kiến nghị để giải quyết những vấn đề phát sinh. Ngoài ra, khi xét thấy cần thiết, các nước ký kết có thể quyết định họp phiên bất thường Nhóm công tác hỗn hợp.
Hiệp định này phải được phê chuẩn.
Hiệp định này sẽ có hiệu lực kể từ ngày đầu tiên của tháng thứ hai sau ngày nhận được văn kiện phê chuẩn thứ hai.
Để làm bằng, đại diện toàn quyền của các nước ký kết đã ký và đóng dấu vào Hiệp định này.
Làm tại Hà Nội, ngày 1 tháng 2 năm 2000, thành hai bản, mỗi bản bằng tiếng Việt và tiếng Pháp, cả hai văn bản đều có giá trị như nhau.