HIỆP ĐỊNH
THÀNH LẬP TỔNG LÃNH SỰ QUÁN VIỆT NAM TẠI THÀNH PHỐ NAM NINH VÀ THÀNH PHỐ CÔN MINH GIỮA CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ CHÍNH PHỦ CỘNG HÒA NHÂN DÂN TRUNG HOA
Với nguyện vọng chung về tăng cường hợp tác lãnh sự và phát triển quan hệ hữu nghị giữa hai nước, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (sau đâu gọi là hai Bên) đã đạt được Hiệp định về việc thiết lập Tổng Lãnh sự quán tại hai nước như sau:
Điều 1. Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đồng ý cho Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam lập Tổng Lãnh sự quán tại thành phố Nam Ninh và thành phố Côn Minh. Phạm vi khu vực lãnh sự của Tổng Lãnh sự quán tại thành phố Nam Ninh là Khu tự trị dân tộc Chuang Quảng Tây; phạm vi khu vực lãnh sự của Tổng Lãnh sự quán tại thành phố Côn Minh là tỉnh Vân Nam.
Điều 2. Theo nguyên tắc đối đẳng, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đồng ý cho Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa bảo lưu quyền lập thêm Tổng Lãnh sự quán tại nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Địa điểm lập Tổng Lãnh sự quán và phạm vi khu vực lãnh sự sẽ do hai bên thỏa thuận qua đường ngoại giao.
Điều 3. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể lập các Tổng Lãnh sự quán như đã được nêu trong bản Hiệp định này vào thời gian thích hợp.
Điều 4. Hai bên cần căn cứ Công ước Viên về quan hệ lãnh sự này 24 tháng 4 năm 1963, Hiệp định lãnh sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ký ngày 19 tháng 10 năm 1998, có hiệu lực ngày 26 tháng 7 năm 2000 và luật pháp và quy định liên quan của nước mình, để cung cấp trợ giúp cần thiết cho mỗi Bên trong việc lập Tổng Lãnh sự quán và thực hiện chức năng lãnh sự.
Điều 5. Hai Bên sẽ căn cứ luật pháp quốc tế, thông lệ quốc tế, Công ước Viên về quan hệ lãnh sự và Hiệp định lãnh sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, thông qua hiệp thương hữu nghị giải quyết vấn đề lãnh sự giữa hai nước.
Điều 6. Hiệp định này có hiệu lực từ ngày ký.
Hiệp định này ký tại Bắc Kinh, Trung Quốc, ngày 16 tháng 10 năm 2003 và được lập thành 02 bản, mỗi bản bằng tiếng Việt, tiếng Trung và tiếng Anh, cả 03 văn bản đều có giá trị như nhau. Trong trường hợp có sự giải thích khác nhau, văn bản tiếng Anh sẽ được dùng để đối chiếu.
Chu Văn Trọng (Đã ký) | Lê Văn Bàng (Đã ký) |