BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG | ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM |
Số: 10-KL/TW | Hà Nội, ngày 18 tháng 10 năm 2011 |
KẾT LUẬN
HỘI NGHỊ LẦN THỨ BA BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG KHÓA XI
VỀ TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI, TÀI CHÍNH - NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 5 NĂM 2006 - 2010 VÀ NĂM 2011; KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI, TÀI CHÍNH - NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 5 NĂM 2011 - 2015 VÀ NĂM 2012
Ban Chấp hành Trung ương Đảng tán thành cơ bản nội dung do Ban cán sự đảng Chính phủ trình bày về tình hình kinh tế - xã hội, tài chính - ngân sách nhà nước 5 năm 2006 - 2010 và năm 2011; kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, tài chính - ngân sách nhà nước năm 2011 - 2015 và năm 2012 Ban Chấp hành Trung ương bổ sung, nhấn mạnh một số điểm sau đây:
1. Về tình hình, nguyên nhân và xu hướng phát triển
1.1- Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006 - 2010, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã phấn đấu vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, ứng phó có kết quả với những diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế thế giới và trong nước, đạt được nhiều thành tựu quan trọng; duy trì mức tăng trưởng kinh tế khá (bình quân 7%/năm), GDP năm 2010 gấp 2 lần năm 2000; nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện; tỉ lệ hộ nghèo giảm nhanh; phát huy dân chủ có tiến bộ; khối đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được củng cố. Đã hoàn thành hầu hết các mục tiêu thiên niên kỷ cam kết với quốc tế. Chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được giữ vững; hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế được mở rộng, vị thế, uy tín của nước ta được nâng cao.
Tuy nhiên, do những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và trong nước nên một số chỉ tiêu, nhiệm vụ Đại hội X đề ra chưa đạt. Kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn chậm, chế độ phân phối chưa thật hợp lý, phân hóa giàu nghèo tăng lên. Thể chế kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng vẫn là những điểm yếu cản trở sự phát triển. Công tác xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chuyển biến chậm. Còn tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định chính trị - xã hội.
1.2- Từ đầu năm 2011, tình hình trong nước và thế giới đã xuất hiện nhiều khó khăn, thách thức mới, song với sự nỗ lực to lớn của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong việc triển khai thực hiện Kết luận số 02-KL/TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết số59/2011/QH12 của Quốc hội và Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ, đã đạt được một số kết quả bước đầu quan trọng. Tốc độ tăng GDP chín tháng đầu năm 2011 đạt 5,76%; cả năm ước đạt 6%. Sản xuất nông nghiệp phát triển khá toàn diện, đạt mức kỷ lục về sản lượng lương thực và xuất khẩu gạo. Sản xuất công nghiệp tăng trưởng khá. Khu vực dịch vụ có bước phát triển. Chỉ số giá tiêu dùng có xu hướng giảm dần; thu ngân sách và xuất khẩu tăng cao; bội chi ngân sách và nhập siêu giảm; thị trường ngoại hối từng bước ổn định; dự trữ ngoại tệ và cán cân thanh toán quốc tế được cải thiện. Lao động, việc làm, thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo có nhiều cố gắng và đạt kết quả tích cực. Các lĩnh vực giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế, văn hóa thông tin có tiến bộ. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; quốc phòng được tăng cường, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ.
Tuy vậy, một số chỉ tiêu quan trọng của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011 chưa hoàn thành, nhất là mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Đến nay, nền kinh tế nước ta vẫn đứng trước nhiều thách thức. Kinh tế vĩ mô chưa thật ổn định; lạm phát còn ở mức cao; dự trữ ngoại tệ mỏng, áp lực đối với tỉ giá còn lớn; thanh khoản của một số ngân hàng thương mại còn yếu, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản giảm sút, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp đang gặp nhiều khó khăn. Việc triển khai thực hiện chủ trương của Đại hội XI về đổi mới mô hình tăng trưởng cơ cấu lại nền kinh tế còn chậm.
Đời sống của nhân dân, nhất là người nghèo, các đối tượng chính sách xã hội, người lao động ở các đô thị, khu công nghiệp, vùng miền núi, biên giới, hải đảo, đồng bào dân tộc thiểu số gặp nhiều khó khăn. Lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y tế, thể thao còn nhiều mặt bất cập. Tai nạn và ùn tắc giao thông chưa giảm. Khiếu kiện đông người, đình công xảy ra ở nhiều nơi; số vụ phạm tội, tệ nạn xã hội gia tăng; công tác quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn hạn chế yếu, kém trên một số mặt.
1.3- Tình hình trên có nguyên nhân khách quan là do tác động của khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu; nguyên nhân chủ quan là do yếu kém của nội tại nền kinh tế với mô hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế lạc hậu, kém hiệu quả, tích tụ, kéo dài từ lâu, chậm được khắc phục và do những hạn chế, yếu kém trong lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành của các cấp, các ngành; đặc biệt là trong điều hành chính sách tiền tệ, tài khóa; quản lý quy hoạch, đầu tư, đất đai, tài nguyên; quản lý thị trường...
1.4- Bước vào năm 2012 và kế hoạch 5 năm, nước ta có những thuận lợi cơ bản là những thành tựu to lớn của 25 năm đổi mới, của 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và kế hoạch 5 năm 2006 - 2010. Trong bối cảnh khó khăn chung của thế giới hiện nay, nước ta vẫn có thể nắm bắt, phát huy những tiềm năng, lợi thế của một nước đi sau, đang trong quá trình công nghiệp hóa với nền nông nghiệp giàu tiềm năng sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản; có điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư nước ngoài và thị trường tiêu thụ nội địa phát triển nhanh… Tuy nhiên, dự báo về tình hình năm 2012 và một số năm tiếp theo, tình hình khủng hoảng nợ công và lạm phát tăng cao ở nhiều nước không chỉ làm chậm quá trình phục hồi kinh tế thế giới trong năm 2011 mà còn tiếp tục gây khó khăn, thậm chí có nguy cơ đẩy kinh tế thế giới rơi vào tình trạng suy thoái mới. Do vậy, năm 2012 vẫn là năm có nhiều khó khăn, thách thức đối với nền kinh tế nước ta, nhất là trước yêu cầu khắc phục những yếu kém của nền kinh tế và đổi mới, phát triển ở tầm cao mới, chiến lược mới.
2. Về quan điểm phát triển, tư tưởng chỉ đạo và định hướng mục tiêu, chỉ tiêu chủ yếu
2.1- Về quan điểm phát triển, tư tưởng chỉ đạo phải nắm vững và giải quyết tốt mối quan hệ biện chứng giữa tốc độ tăng trưởng và chất lượng phát triển; giữa tăng trưởng cao và ổn định kinh tế vĩ mô; giữa kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội; giữa phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh. Trong quản lý điều hành, cần phấn đấu để đạt kết quả toàn diện, song tuỳ tình hình mà xếp thứ tự ưu tiên sao cho hợp lý nhất. Trong năm 2012 và những năm tiếp theo, tiếp tục thực hiện Kết luận số 02-KL/TW của Bộ Chính trị, ưu tiên hàng đầu cho việc kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; tạo tiền đề vững chắc cho tăng trưởng cao hơn ở những năm cuối của kế hoạch 5 năm.
Để ứng phó với tình hình trong nước, thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, đi đôi với việc nâng cao năng lực phân tích, dự báo, cần phát huy tốt hơn nữa vai trò của Nhà nước trong kiến tạo, điều tiết sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên cơ sở tôn trọng, vận dụng đầy đủ, đúng đắn các quy luật, nguyên tắc của kinh tế thị trường, xem nhu cầu thị trường, cơ chế thị trường và hiệu quả, lợi ích là căn cứ chính để quyết định việc phân bổ các nguồn lực cho phát triển; đồng thời có biện pháp tích cực ngăn ngừa và khắc phục những hạn chế, mặt trái của cơ chế thị trường. Ưu tiên huy động và phân bổ nguồn lực bảo đảm thực hiện thành công ba khâu đột phá chiến lược mà Đại hội XI đã xác định; chú trọng phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn phát triển văn hóa - xã hội, y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ và chủ động ứng phó với thiên tai, dịch bệnh, nước biển dâng do biến đổi khí hậu toàn cầu.
2.2- Mục tiêu tổng quát của 5 năm 2011 - 2015 là: Phát triển kinh tế nhanh, bền vững, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh. Bảo đảm phúc lợi xã hội và an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tăng cường hoạt động đối ngoại và nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và trật tự an toàn xã hội. Tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Mục tiêu của năm 2012 là: Ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, bảo đảm phúc lợi xã hội và an sinh xã hội, cải thiện đời sống nhân dân; giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội; nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế.
2.3- Trên cơ sở mục tiêu tổng quát đó và để phù hợp với tình hình thực tế, định hướng các chỉ tiêu chủ yếu như sau: Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm 2011 - 2015 khoảng 6,5 – 7%/năm; tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng đến năm 2015 giảm còn khoảng 5 – 7%; bội chi ngân sách nhà nước dưới 4,5% GDP; nợ công dưới 65% GDP; nhập siêu khoảng 10% kim ngạch xuất khẩu. Hằng năm, Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định phương án tăng trưởng cụ thể với một số chỉ tiêu chủ yếu tương ứng về tốc độ tăng trưởng, mức lạm phát, bội chi ngân sách, nợ công, nhập siêu, dự trữ ngoại tệ.
Năm 2012, tốc độ tăng trưởng GDP khoảng 6 - 6,5%; chỉ số giá tiêu dùng tăng dưới 10%, bội chi ngân sách nhà nước dưới 4,8% GDP, nhập siêu 11 - 12% kim ngạch xuất khẩu. Trong mọi trường hợp, phải cố gắng bảo đảm thực hiện các mục tiêu xã hội như: tạo việc làm, nâng cao đời sống nhân dân, giảm tỉ lệ hộ nghèo, bảo đảm an sinh xã hội...
3. Về định hướng các giải pháp chủ yếu
3.1- Tất cả các chính sách, biện pháp phải tập trung phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, khẩn trương khắc phục những nguyên nhân gây trở ngại cho sự phát triển bền vững, nhất là nguyên nhân chủ quan, do lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành. Trong năm 2012, cần tiếp tục thực hiện tốt hơn các mục tiêu, chính sách và biện pháp nêu trong Kết luận số 02-KUTW của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ. Trước hết, thực hiện chính sách tiền tệ, tài khóa đồng bộ, chặt chẽ; thực hiện nghiêm việc cắt giảm và quản lý tốt đầu tư công; tạo thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh, hỗ trợ có chọn lọc cho những ngành, lĩnh vực quan trọng và các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, có lợi thế cạnh tranh. Trong 5 năm tới, cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức triển khai thực hiện tốt 11 nhóm nhiệm vụ và giải pháp nêu trong tờ trình của Ban cán sự đảng Chính phủ. Đặc biệt là các định hướng giải pháp nhằm đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế.
3.2- Cơ cấu lại nền kinh tế phải gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; phải được thực hiện đồng bộ trong tất cả các ngành, các lĩnh vực trên phạm vi cả nước và từng địa phương, đơn vị cơ sở trong nhiều năm. Trong 5 năm tới, cần tập trung vào ba lĩnh vực quan trọng nhất: Tái cơ cấu đầu tư với trọng tâm là đầu tư công; cơ cấu lại thị trường tài chính với trọng tâm là tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính; tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước.
Về tái cấu trúc đầu tư mới trọng tâm là đầu tư công, cần tiếp tục đổi mới tư duy và phương pháp xây dựng, tổ chức thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hằng năm và 5 năm để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả nhất, theo thứ tự ưu tiên hợp lý nhất các nguồn lực của Nhà nước và xã hội, nội lực và ngoại lực cho đầu tư phát triển theo quy hoạch. Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách đầu tư phải có tầm nhìn xa, không bị "tư duy nhiệm kỳ”, tư tưởng cục bộ, bệnh thành tích, chủ quan duy ý chí hay "lợi ích nhóm" chi phối. Quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hằng năm và 5 năm 2011 - 2015 phải cụ thể hóa được những mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ do Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 đề ra và gắn kết chặt chẽ với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực và vùng lãnh thổ phù hợp với tình hình đất nước và thế giới trong từng thời kỳ. Trên cơ sở đó, cần khẩn trương soát xét, điều chỉnh luật pháp, chính sách và cơ chế quản lý đầu tư nói chung và đầu tư công nói riêng; đặc biệt là vấn đề phân cấp quản lý nhà nước về thu, chi ngân sách và đầu tư. Khẩn trương xác định các tiêu chí và thứ tự ưu tiên làm căn cứ để phê duyệt hay từ chối hoặc cắt giảm các dự án đầu tư, nhất là dự án đầu tư công. Khắc phục tình trạng phát triển quá nhiều các khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khai thác quá mức tài nguyên, khoáng sản; tình trạng phê duyệt quá nhiều dự án vượt khả năng nguồn lực hiện có, kế hoạch đầu tư bị cắt khúc ra nhiều năm dẫn đến đầu tư dàn trải, kéo dài thời gian thi công, nợ xây dựng cơ bản lớn, gây lãng phí thất thoát, hiệu quả thấp.
Nội dung của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội phải tính toán đầy đủ đến kế hoạch huy động vốn, phát triển nguồn nhân lực và khoa học - công nghệ; đồng thời phải bao gồm đồng bộ các chính sách, biện pháp cụ thể, có tính khả thi, bảo đảm thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra.
Để cơ cấu lại thị trường tài chính với trọng tâm là tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính, cần đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường tiền tệ, đặc biệt là thị trường vàng và ngoại tệ, khắc phục tình trạng đôla hoá; kiểm soát chặt chẽ nợ công, nợ xấu của doanh nghiệp nhà nước, vay trả nợ nước ngoài, các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, nhất là đầu tư vào lĩnh vực bất động sản, thị trường chứng khoán và các nguồn vốn nóng khác. Từng bước giảm tỉ lệ cung cấp vốn cho đầu tư phát triển từ hệ thống ngân hàng thương mại, nâng cao chất lượng các hoạt động dịch vụ ngân hàng. Cấu trúc lại hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính theo hướng giảm số lượng; giảm nhanh số lượng ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính yếu kém, sáp nhập, hợp nhất các ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính nhỏ... để có số lượng phù hợp các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính có quy mô và uy tín, hoạt động lành mạnh, bảo đảm tính thanh khoản và an toàn hệ thống.
Trong quá trình tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước, phải quán triệt thực hiện nghiêm túc các quan điểm mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đổi mới, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước đã được xác định trong các nghị quyết của Đảng. Kiên quyết chấm dứt tình trạng các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước đầu tư dàn trải ra ngoài ngành, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh chính trước năm 2015. Tập trung phát triển doanh nghiệp nhà nước trong những ngành, lĩnh vực quan trọng có ý nghĩa then chốt của nền kinh tế quốc dân, chủ yếu thuộc các chuyên ngành kinh tế, kỹ thuật liên quan đến kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, dịch vụ công, ổn định kinh tế vĩ mô. Hoàn thiện thể chế quản lý doanh nghiệp nhà nước, thực hiện quyền và trách nhiệm của chủ sở hữu nhà nước đối với vốn và tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp, bảo đảm công khai, minh bạch về tài chính. Đổi mới quản trị và cơ chế hoạt động của doanh nghiệp nhà nước theo hướng chuyển sang tổ chức và hoạt động theo mô hình công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn phù hợp với quy định của Luật Doanh nghiệp, cạnh tranh bình đẳng trên thị trường. Đối với mỗi tập đoàn, tổng công ty nhà nước cần xây dựng đề án tái cấu trúc và phương án nhân sự lãnh đạo chủ chốt phù hợp, có tính đến việc thuê tổng giám đốc là người nước ngoài trong trường hợp thực sự cần thiết và có hiệu quả.
3.3- Trong suốt quá trình phát triển, phải luôn quan tâm thực hiện các định hướng chính sách, biện pháp bảo đảm an ninh lương thực gắn với bảo vệ môi trường sinh thái và bảo đảm an ninh năng lượng.
Để bảo đảm an ninh lương thực gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, cần tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (khóa X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; kiên quyết giữ 3,8 triệu hécta đất trồng lúa, có chính sách điều tiết ngân sách hợp lý đối với vùng đồng bằng, nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long để các vùng này chuyên tâm sản xuất, chế biến lúa gạo và các hàng nông sản, thực phẩm khác, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Tập trung ưu tiên phát triển nông nghiệp công nghệ cao, quy mô lớn, chất lượng cao đối với một số sản phẩm có lợi thế nhằm hình thành các vùng chuyên canh. Đồng thời, chủ động, tích cực chuẩn bị đối phó có hiệu quả với nguy cơ nước biển dâng và thiên tai, dịch bệnh do tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu; tăng cường các chính sách, biện pháp bảo vệ tài nguyên, môi trường, nhất là chính sách trồng và bảo vệ rừng, khai thác sử dụng tài nguyên nước. Chấm dứt tình trạng khai thác quá đáng, làm cạn kiệt tài nguyên, gây hại cho môi trường. Kiểm soát chặt chẽ việc xử lý chất thải công nghiệp, đáp ứng tiêu chuẩn bảo vệ môi trường.
Bảo đảm an ninh năng lượng trên cơ sở đẩy mạnh huy động mọi nguồn lực phát triển nguồn cung theo đúng sơ đồ tổng thể quy hoạch phát triển hệ thống điện lực Việt Nam và chiến lược phát triển ngành dầu khí, ngành than đến năm 2020; đồng thời, kiểm soát có hiệu quả các nhu cầu sử dụng năng lượng, tăng cường các biện pháp tiết kiệm điện gắn với lộ trình chuyển sang áp dụng giá thị trường đối với điện, than và xăng dầu.
3.4- Đi đôi với phát triển kinh tế, cần quan tâm đến thực hiện các mục tiêu xã hội. Áp dụng đồng bộ các chính sách, biện pháp phát triển kinh tế gắn với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; chú trọng bảo đảm an sinh xã hội, chăm sóc sức khoẻ nhân dân, tạo việc làm, nâng cao thu nhập, xoá đói, giảm nghèo, giảm chênh lệch giàu nghèo, giải quyết các bức xúc của nhân dân.
Đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, quan tâm đến nhân lực lãnh đạo, quản lý, quản trị doanh nghiệp, khoa học - công nghệ, văn hóa nghệ thuật; nâng cao chất lượng giáo dục, nhất là bậc đại học; tập trung chuyển từ đào tạo chiều rộng sang chiều sâu, quan tâm đặc biệt đến đào tạo nghề; điều chỉnh chính sách về giáo dục mầm non, giáo dục miền núi; làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục để đảm bảo nhu cầu học tập của các đối tượng, nhất là giáo dục mầm non.
Đẩy mạnh đầu tư phát triển mạnh mẽ khoa học - công nghệ, đổi mới căn bản cơ chế quản lý khoa học - công nghệ, phát triển kinh tế tri thức. Quan tâm phát triển mạnh mẽ công tác nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao công nghệ, gắn khoa học - công nghệ với sản xuất trong tất cả các ngành và lĩnh vực; phát triển mạnh thị trường khoa học, công nghệ.
Có chính sách tạo đột phá giảm nghèo bền vững, tạo môi trường thuận lợi cho người nghèo phát huy nội lực vươn lên thoát nghèo. Huy động các nguồn lực xã hội cho công tác giảm nghèo, có giải pháp nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo, vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc.
Củng cố và xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phong phú đa dạng, tăng cường hiệu quả hoạt động của hệ thống thiết chế văn hóa ở các cấp; đồng thời, cải tạo, nâng cấp và đầu tư xây dựng mới một số công trình văn hóa nghệ thuật, thể dục, thể thao hiện đại.
3.5- Quan tâm củng cố an ninh, quốc phòng, đối ngoại vững mạnh, giữ vững độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không ngừng nâng cao vị trí, uy tín đất nước trên trường quốc tế. Tập trung giải quyết những vấn đề gây bức xúc trong nhân dân, nhất là trong việc giải tỏa đền bù, thu hồi đất và những tiêu cực trong giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khỏe nhân dân; củng cố niềm tin trong nhân dân.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp; tăng cường hơn nữa việc bảo đảm thực thi nghiêm chỉnh luật pháp, xử lý nghiêm và kịp thời những sai phạm; khẩn trương bổ sung những văn bản pháp luật mới để từng bước hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy của Chính phủ và chính quyền các cấp, sớm thực hiện thí điểm mô hình chính quyền đô thị, nhất là ở những thành phố lớn. Siết chặt trật tự kỷ cương, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; đẩy lùi tệ nạn, tiêu cực, tai nạn giao thông; phòng, chống các loại tội phạm.
4. Tổ chức thực hiện
Ban cán sự đảng Chính phủ, Đảng đoàn Quốc hội căn cứ vào Kết luận này hoàn chỉnh các báo cáo, dự thảo kế hoạch để trình Quốc hội xem xét, quyết định.
Cấp ủy, chính quyền, mặt trận và đoàn thể các cấp xây dựng các chương trình hành động cụ thể thực hiện Kết luận này và quyết định của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, tài chính - ngân sách 5 năm 2011 - 2015 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, tài chính - ngân sách năm 2012.
| T/M BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG |
- 1 Thông báo 23/TB-VPCP năm 2017 kết luận Hội nghị đánh giá kết quả thực hiện Quy chế phối hợp công tác của Chính phủ và Ban Chấp hành Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh năm 2016 do Văn phòng Chính phủ ban hành
- 2 Thông báo 176/TB-VPCP kết luận Hội nghị thực hiện Quy chế về mối quan hệ công tác giữa Chính phủ và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam năm 2016 do Văn phòng Chính phủ ban hành
- 3 Thông báo 64/TB-VPCP năm 2016 kết luận Hội nghị kiểm điểm việc thực hiện Quy chế phối hợp công tác của Chính phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam do Văn phòng Chính phủ ban hành
- 4 Nghị quyết 59/2011/QH12 về kỳ họp thứ chín, Quốc hội khoá XII do Quốc hội ban hành
- 5 Kết luận 02-KL/TW về tình hình kinh tế- xã hội năm 2011 do Ban Chấp hành Trung ương ban hành
- 6 Nghị quyết 11/NQ-CP năm 2011 về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội do Chính phủ ban hành
- 7 Luật Doanh nghiệp 2005
- 1 Thông báo 64/TB-VPCP năm 2016 kết luận Hội nghị kiểm điểm việc thực hiện Quy chế phối hợp công tác của Chính phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam do Văn phòng Chính phủ ban hành
- 2 Thông báo 176/TB-VPCP kết luận Hội nghị thực hiện Quy chế về mối quan hệ công tác giữa Chính phủ và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam năm 2016 do Văn phòng Chính phủ ban hành
- 3 Thông báo 23/TB-VPCP năm 2017 kết luận Hội nghị đánh giá kết quả thực hiện Quy chế phối hợp công tác của Chính phủ và Ban Chấp hành Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh năm 2016 do Văn phòng Chính phủ ban hành