Hệ thống pháp luật

Khiếu nại đòi lại quyền sử dụng đất đã góp vào hợp tác xã

Ngày gửi: 16/01/2020 lúc 11:31:12

Mã số: HTPL25849

Câu hỏi:

Năm 1961, ông An mua 3 ha ruộng đất. Năm 1968, ông An góp 3 ha ruộng đất này vào hợp tác xã. Năm 1987, hợp tác xã giải thể và chính quyền địa phương chia ruộng đất cho các hộ gia đình nhận khoán, nhưng ông An và 04 người con không được chia đất để canh tác. Ông An và các con đã làm đơn khiếu nại nhiều lần về việc này nhưng không được trả lời. Năm 2009, ông An mất. Hiện 4 người con của ông An trực tiếp sản xuất nông nghiệp nhưng vẫn không có đất sản xuất. Những người con này đã làm đơn kiện đòi lại đất mà ông An đã góp vào hợp tác xã, mãi cũng không được. Cha mẹ tôi đã mất, hiện nay gia đình chúng tôi gồm 5 người làm nông ngiệp ở nông thôn mà không có ruộng để sản xuất. Vậy theo pháp luật hiện hành thì: Việc đòi lại đất của các người con của ông An đúng hay sai? Vì sao? Vụ việc này do cơ quan nhà nước nào giải quyết? Thủ tục giải quyết như thế nào? Có thể tư vấn cho 4 người con của ông An các thủ tục để có đất sản xuất sử dụng vào mục đích nông nghiệp? .Việc làm của chính quyền địa phương trong vụ việc này đúng hay sai? Vì sao?

Câu trả lời tham khảo:

Hệ thống pháp luật Việt Nam (hethongphapluat.com) xin chân thành cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến chúng tôi. Sau khi nghiên cứu, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi xin đưa ra câu trả lời có tính chất tham khảo như sau:

Thứ nhất: Đất gia đình bạn mua từ năm 1961, đến năm 1968 thì góp vào hợp tác xã. Tại thời điểm đó khi thực hiện thủ tục góp vốn sẽ tuân thủ theo Thông tư 449-TTg về việc ban hành điều lệ mẫu hợp hợp tác xã sản xuất nông nghiệp bậc thấp.

Tuy nhiên đến năm 1987 thì hợp tác xã giải thể thì hoạt động và việc phân chia tài sản phải tuân thủ theo Điều lệ hợp tác xã nông nghiệp bậc cao ban hành ngày 01 tháng 5 năm 1969.

Mặt khác, việc giải quyết các trường hợp khiếu nại, tranh chấp về đất đai phải căn cứ vào pháp luật về đất đai tại thời điểm xảy ra các quan hệ đất đai dẫn đến khiếu nại, tranh chấp nhưng tại thời điểm đó Luật đất đai 1987 và Luật đất đai 1993 không quy định nội dung này và việc khiếu nại thực hiện từ năm 1987 đến nay.

Tuy nhiên tại Nghị định số 181/2004/NĐ-CP

“1. Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất và không xem xét giải quyết khiếu nại về việc đòi lại đất mà Nhà nước đã giao cho người khác sử dụng theo các chính sách ruộng đất trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 trong các trường hợp sau:

a) Đất bị tịch thu, trưng thu, trưng mua khi thực hiện cải cách ruộng đất ở miền Bắc; chính sách xoá bỏ triệt để tàn tích chiếm hữu ruộng đất và các hình thức bóc lột thực dân, phong kiến ở miền Nam;

c) Đất đã góp vào hợp tác xã nông nghiệp theo quy định của Điều lệ hợp tác xã nông nghiệp bậc cao;

d) Đất thổ cư mà Nhà nước đã giao cho người khác để làm đất ở; đất ở và đất vườn đã giao lại cho hợp tác xã để đi khai hoang; ruộng đất đã bị thu hồi để giao cho người khác hoặc điều chỉnh cho người khác khi giải quyết tranh chấp ruộng đất;

đ) Đất đã chia cho người khác khi hưởng ứng cuộc vận động san sẻ bớt một phần ruộng đất để chia cho người không có ruộng và thiếu ruộng tại miền Nam sau ngày giải phóng.”

Việc khiếu nại đòi đất là sai, nhà nước sẽ không thừa nhận cũng như không xem xét giải quyết khiếu nại.

Thứ hai: Tiếp đó, theo như bạn trình bày thì sự việc khiếu nại cho đến nay vẫn chưa xong. Nếu đưa ra cơ quan có thẩm quyền giải quyết tại thời điểm hiện nay sẽ áp dụng theo quy định của Luật đất đai 2013. Vậy cơ quan có thầm quyền giải quyết thực hiện như sau:

“Điều 203. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai

Tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã mà không thành thì được giải quyết như sau:

2. Tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này thì đương sự chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định sau đây:

a) Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều này;

b) Khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự;

3. Trường hợp đương sự lựa chọn giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền thì việc giải quyết tranh chấp đất đai được thực hiện như sau:

a) Trường hợp tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính;

b) Trường hợp tranh chấp mà một bên tranh chấp là tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính;

4. Người có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai tại khoản 3 Điều này phải ra quyết định giải quyết tranh chấp. Quyết định giải quyết tranh chấp có hiệu lực thi hành phải được các bên tranh chấp nghiêm chỉnh chấp hành. Trường hợp các bên không chấp hành sẽ bị cưỡng chế thi hành.”

Thẩm quyền, hồ sơ, trình tự thủ tục khiếu nại về BHXH mới nhất

Thứ ba: Những người con của ông An có thể làm thủ tục xin giao đất theo quy định tại Nghị định 43/2014/NĐ-CP Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai và Thông tư số 30/2014/TT-BTNMT.

Hồ sơ:

Đơn xin giao đất, cho thuê đất

Trích lục bản đồ địa chính thửa đất hoặc trích đo địa chính thửa đất.

Nộp lên bên phía phòng tài nguyên môi trường để thực hiện thủ tục xin giao đất, thuê đất

>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 024.6294.9155

Thứ tư: Việc làm của chính quyền địa phương tại thời điểm đó là sai, việc gia đình ông An góp vốn vào hợp tác xã khi bị giải thể chính quyền địa phương chia ruộng đất cho các hộ gia đình nhận khoán, nhưng ông An và 04 người con không được chia đất để canh tác không đảm bảo quyền lợi bời lẽ việc góp tài sản là đất này dựa trên điều lệ hợp tác xã.

Theo quy định tại Nghị định 181/2004/NĐ – CP

“Điều 109. Quyền sử dụng đất của hợp tác xã khi bị giải thể, phá sản

Việc giải quyết đất của hợp tác xã khi bị giải thể, phá sản được thực hiện theo quy định sau:

1. Đối với đất được Nhà nước giao không thu tiền sử dụng đất; được Nhà nước cho thuê; được Nhà nước giao có thu tiền sử dụng đất, mua tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất hoặc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất hợp pháp từ người khác mà tiền sử dụng đất, tiền mua tài sản, tiền nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước thì Nhà nước thu hồi đất đó;

2. Đối với đất được Nhà nước giao có thu tiền sử dụng đất, mua tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất hoặc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất hợp pháp từ người khác mà tiền sử dụng đất, tiền mua tài sản, tiền nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước; đất do xã viên góp quyền sử dụng vào hợp tác xã thì Nhà nước không thu hồi đất đó, quyền sử dụng đất là tài sản của hợp tác xã và được xử lý theo điều lệ của hợp tác xã hoặc Nghị quyết của Đại hội xã viên.”

Hy vọng rằng sự tư vấn của chúng tôi sẽ giúp bạn lựa chọn phương án thích hợp nhất để giải quyết những vướng mắc của bạn. Nếu còn bất cứ thắc mắc gì liên quan đến sự việc bạn có thể liên hệ Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7 của Luật sư: 024.6294.9155  để được giải đáp

Trên đây là câu trả lời của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam liên quan đến yêu cầu câu hỏi của bạn. Hy vọng câu trả lời của chúng tôi sẽ hữu ích cho bạn.

Nếu có bất cứ vướng mắc gì về pháp lý mời bạn tiếp tục đặt câu hỏi. Chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp.

Trân trọng cảm ơn.

BBT.Hệ Thống Pháp Luật Việt nam

Lưu ý: Nội dung tư vấn của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam trên đây chỉ mang tính tham khảo. Tùy vào từng thời điểm và đối tượng khác nhau mà nội dung tư vấn trên có thể sẽ không còn phù hợp do sự thay đổi của chính sách hay quy định mới của pháp luật.

Gửi yêu cầu tư vấn