Hệ thống pháp luật

Lập trang web bán số lô số đề có vi phạm pháp luật không?

Ngày gửi: 07/08/2015 lúc 23:02:24

Mã số: HTPL41345

Câu hỏi:

Anh họ tôi lập trang web bán số lô đề ảo online. Người chơi lô đề muốn có số thì phải vào trang web nạp thẻ điện thoại. Hành vi của anh ấy có vi phạm pháp luật hay không? Nếu có thì bị xử lý vi phạm như thế nào? Kính mong nhận được tư vấn của công ty luật?

Câu trả lời tham khảo:

Hệ thống pháp luật Việt Nam (hethongphapluat.com) xin chân thành cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến chúng tôi. Sau khi nghiên cứu, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi xin đưa ra câu trả lời có tính chất tham khảo như sau:

1. Căn cứ pháp lý

Nghị quyết số 01/2010/NĐ-HĐTP

Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung 2009 

Nghị định 167/2013/NĐ-CP

2. Nội dung tư vấn

Anh bạn lập trang web ghi lô đề mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép, bên cạnh đó còn xuất hiện mục đích được thua bằng tiền và hiện vật (thẻ điện thoại), nên ở đây có thể bị coi là hành vi đánh bạc trái phép, và anh bạn có thể là người tổ chức đánh bạc trái phép.

Hiện nay theo hướng dẫn tại Nghị quyết 144/2016/QH13, lùi hiệu lực thi hành Bộ luật hình sự 2015, nay vẫn áp dụng quy định tại Bộ luật hình sự 1999 và Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung 2009.

Căn cứ Điều 249 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung 2009 như sau:

"1. Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép với quy mô lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này và Điều 248 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến ba trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các  trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

a) Có tính chất chuyên nghiệp;

b) Thu lợi bất chính lớn, rất lớn hoặc đặc biệt lớn;

c) Tái phạm nguy hiểm.

3. Người phạm tội còn  có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản."

Căn cứ khoản 1 Điều 2 Nghị quyết 01/2010/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 248 và Điều 249 của Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung 2009:

>>> Luật sư tư vấn pháp luật hình sự qua tổng đài: 024.6294.9155

“1. Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc thuộc một trong các trường hợp sau đây là “với quy mô lớn”:

a) Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trong cùng một lúc cho từ mười người đánh bạc trở lên hoặc cho từ hai chiếu bạc trở lên mà số tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng.

b) Có tổ chức nơi cầm cố tài sản cho người tham gia đánh bạc; có lắp đặt trang thiết bị phục vụ cho việc đánh bạc; khi đánh bạc có phân công người canh gác, người phục vụ, có sắp đặt lối thoát khi bị vây bắt, sử dụng phương tiện như ô tô, xe máy, xe đạp, điện thoại… để trợ giúp cho việc đánh bạc;

c) Tổng số tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trong cùng một lần có giá trị từ 20.000.000 đồng trở lên”.

Khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 01/2010/NQ-HĐTP quy định: “2. Người tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc thuộc trường hợp chưa đến mức được hướng dẫn tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều này, nếu tổng số tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng thì tuy họ không phải chịu trách nhiệm hình sự về “tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc” nhưng họ phải chịu trách nhiệm hình sự về đồng phạm tội đánh bạc”.

Như vậy, tùy từng hành vi của anh trai bạn, có thể phải chịu trách nhiệm hình sự tội tổ chức đánh bạc theo quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung 2009 hoặc Tội đánh bạc theo quy định Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung 2009.

Nếu không đủ căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với anh trai bạn thì anh trai bạn sẽ bị xử phạt hành chính đối với hành vi đánh bạc trái phép theo quy định tại Điều 26 Nghị định 167/2013/NĐ-CP.

Trên đây là câu trả lời của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam liên quan đến yêu cầu câu hỏi của bạn. Hy vọng câu trả lời của chúng tôi sẽ hữu ích cho bạn.

Nếu có bất cứ vướng mắc gì về pháp lý mời bạn tiếp tục đặt câu hỏi. Chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp.

Trân trọng cảm ơn.

BBT.Hệ Thống Pháp Luật Việt nam

Lưu ý: Nội dung tư vấn của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam trên đây chỉ mang tính tham khảo. Tùy vào từng thời điểm và đối tượng khác nhau mà nội dung tư vấn trên có thể sẽ không còn phù hợp do sự thay đổi của chính sách hay quy định mới của pháp luật.

Gửi yêu cầu tư vấn