HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ | VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ |
Số: 94-CP | Hà Nội, ngày 07 tháng 05 năm 1973 |
BAN HÀNH ĐIỀU LỆ THÔNG TIN ĐIỆN BÁO VÀ ĐIỀU LỆ THÔNG TIN ĐIỆN THOẠI
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
Để tăng cường công tác thông tin điện báo, thông tin điện thoại, tạo điều kiện cho công tác này phát triển với chất lượng cao, phục vụ tốt cho sản xuất, chiến đấu và đời sống nhân dân;
Theo đề nghị khen thưởng của ông Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện,
NGHỊ ĐỊNH:
Điều 1.- Nay ban hành kèm theo Nghị định này:
- Điều lệ thông tin điện báo,
- Điều lệ thông tin điện thoại.
T.M HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ |
Trong hoạt động và sinh hoạt hàng ngày của nhân dân, các tổ chức xã hội, các cơ quan Nhà nước, việc sử dụng bưu điện để giao dịch, trao đổi, thông tin liên lạc là một nhu cầu rất cần thiết không thể thiếu được.
Ngành bưu điện có trách nhiệm tổ chức tốt việc phục vụ các nhu cầu nói trên. Điều lệ này quy định những nguyên tắc và thể thức về thông tin điện báo, để một bên là người sử dụng và một bên là ngành bưu điện thi hành đúng đắn, nhằm bảo đảm cho công tác thông tin điện báo được nhanh chóng, chính xác, an toàn và tiện lợi nhất.
Các ngành khác muốn đặt mạng lưới thông tin điện báo riêng phải được sự thoả thuận trước của Tổng cục Bưu điện, phải chịu sự kiểm soát về kỹ thuật của bưu điện và chỉ được sử dụng mạng lưới đó vào việc thông tin chuyên dùng trong nội bộ ngành mình.
Các ngành có mạng lưới thông tin điện báo riêng nói trên, nếu muốn kết hợp phục vụ cho tổ chức khác hay cho tư nhân, dù với mục đích kinh doanh hay không kinh doanh, đều phải được sự thoả thuận trước của Tổng cục Bưu điện.
Mọi điện báo từ mạng lưới thông tin riêng chuyển qua mạng lưới thông tin điện báo của bưu điện phải theo đúng những quy định trong điều lệ này.
Không ai được xâm phạm, làm mất, hủy bỏ điện báo của người khác. Người làm công tác bưu điện không được tiết lộ nội dung điện báo, tên người sử dụng điện báo mà mình biết được trong khi làm nhiệm vụ, trừ trường hợp đặc biệt được pháp luật quy định.
Người sử dụng điện báo bao gồm mọi tổ chức và tư nhân trong nước hay nước ngoài gửi hoặc nhân điện báo tại nước Việt-nam dân chủ cộng hòa.
Điện báo trong nước gồm có các loại:
- Điện báo khí tượng, thủy văn,
- Điện báo công,
- Điện báo nghiệp vụ,
- Điện báo báo chí,
- Điện báo tư,
- Điện báo chuyển tiền,
- Điện báo chúc khánh.
Mỗi loại điện báo có giá cước riêng, có cách nhận, chuyển phát riêng.
Các cơ quan đại sứ, cơ quan tổng đại diện, đại diện lãnh sự, các phải đoàn nước ngoài dùng điện báo công để giải quyết việc công trong phạm vi lãnh thổ nước Việt-nam dân chủ cộng hoà.
Điện báo ngoài nước gồm có các loại:
- Điện báo an toàn nhân mạng,
- Điện báo an toàn hàng không,
- Điện báo khí tượng,
- Điện báo quan sát vũ trụ,
- Điện báo quốc vụ,
- Điện báo nghiệp vụ,
- Điện báo tư,
- Điện báo báo chí,
- Điện báo thư.
Tổng cục Bưu điện, căn cứ vào hiệp định ký kết với nước ngoài, thông báo những loại điện báo được trao đổi với từng nước, điều kiện nhận, chuyển phát và giá cước quy định cho từng loại.
Điện báo an toàn nhân mạng do tổ chức bảo vệ sức khoẻ thế giới hay chi nhánh dịch tễ của tổ chức này gửi phải là những điện báo có nội dung đặc biệt khẩn cấp về dịch tễ liên quan đến việc bảo vệ tính mạng con người.
- Các vị lãnh đạo Đảng của các nước xã hội chủ nghĩa,
- Các vị đứng đầu Nhà nước,
- Các vị lãnh đạo Quốc hội, Chính phủ và các thành viên trong Chính phủ,
- Các tổng tư lệnh Quân đội, tư lệnh các binh chủng,
- Các đại sứ, các tổng đại diện, đại diện, lãnh sự.
Điện báo trả lời điện báo quốc vụ nói trên cũng được coi như điện báo quốc vụ.
Mục 3 – Điện báo tàu bay, tàu biển trong nước và ngoài nước
Điện báo tàu bay, tàu biển trong nước và ngoài nước được dùng các loại điện báo thích hợp do Tổng cục Bưu điện quy định trong phạm vi các loại ghi ở điều 6 và điều 14 trên đây.
Điện báo tàu bay, tàu biển có giá cước riêng, có cách nhận chuyển, phát riêng.
Điều 28.- Về mức độ ưu tiên, có những công vụ đặc biệt sau đây:
a) Hoả tốc: Điện báo hoả tốc là điện báo có yêu cầu phải được chuyển phát ngay, chậm nhất không được quá 4 tiếng đồng hồ kể từ lúc gửi cho đến lúc phát xong cho người nhận ở trong khu vực phát điện báo. Công vụ đặc biệt hoả tốc chỉ được dùng cho điện báo công (trong nước) mà nội dung có tính chất hết sức cấp bách thuộc về an toàn quốc gia, khẩn cấp quân sự, cấp cứu hay bảo vệ sinh mạng, cấp cứu hay bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể hay của nhân dân.
b) Thượng khẩn: Điện báo thượng khẩn là điện báo có yêu cầu phải được chuyển, phát thật nhanh chóng, chậm nhất không được quá 6 tiếng đồng hồ kể từ lúc gửi cho đến lúc phát xong cho người nhận ở trong khu vực phát điện báo. Công vụ đặc biệt thượng khẩn chỉ được dùng cho điện báo công (trong nước) mà nội dung có tính chất cấp bách.
c) Khẩn: Điện báo khẩn là điện báo có yêu cầu phải được chuyển, phát nhanh hơn điện báo thường, chậm nhất không được quá 12 tiếng đồng hồ kể từ lúc gửi cho đến lúc phát xong cho người nhận ở trong khu vực phát điện báo và trong giới hạn thời gian quy định cho việc phát điện báo khẩn. Công vụ đặc biệt khẩn có thể dùng cho điện báo trong nước hay ngoài nước, về việc công cũng như việc riêng.
Điều 29.- Về các cách chuyển phát khác, có những công vụ đặc biệt sau đây:
- Điện báo nhiều nơi; Ghi đủ các địa chỉ: Điện báo nhiều nơi là điện báo có yêu cầu cơ sở bưu điện đến phải sao chép ra nhiều bản phát cho cùng một người nhận ở nhiều chỗ khác nhau hoặc cho nhiều người nhận ở cùng một chỗ hay ở nhiều chỗ khác nhau trong phạm vi phục vụ của cơ sở bưu điện đến. Nếu muốn cơ sở bưu điện đến ghi trên mỗi bản sao đủ các địa chỉ của bức điện báo nhiều nơi thì người gửi dùng thêm công vụ đặc biệt ghi đủ các địa chỉ.
- Có cước trả lời: Điện báo có cước trả lời là điện báo mà người gửi có trả trước một số tiền để người nhận dùng thanh toán cước điện báo mà mình gửi đi.
- Đối chiếu: Điện báo đối chiếu là điện báo có yêu cầu bưu điện nhắc lại toàn bộ bức điện báo trong khi chuyển nhận trên đường điện.
- Chuyển tiếp: Điện báo chuyển tiếp là điện báo mà người gửi, người nhận hay người nhà đã trưởng thành của người nhận có yêu cầu bưu điện chuyển tiếp bằng đường điện đến địa chỉ mới của người nhận trong trường hợp người này đã di chuyển đi nơi khác có để lại địa chỉ mới.
- Báo phát; Báo trả: Điện báo báo phát là điện báo có yêu cầu bưu điện báo cho người gửi biết ngày giờ phát cho người nhận. Đối với điện báo chuyển tiền, nếu người gửi yêu cầu bưu điện báo cho biết ngày trả tiền cho người nhận thì dùng công vụ đặc biệt báo trả: người gửi có thể yêu cầu báo trả bằng đường điện (điện báo trả) hoặc báo trả bằng đường thư (thư báo trả).
- Thuê phát: Điện báo thuê phát là điện báo có yêu cầu cơ sở bưu điện đến thuê riêng người đi phát bức điện báo cho người nhận ở ngoài khu vực phát điện báo.
- Phát bằng điện thoại; Phát bằng điện báo: Điện báo phát bằng điện thoại hay điện báo phát bằng điện báo là điện báo có yêu cầu cơ sở bưu điện đến dùng điện thoại hay điện báo chuyển cho người nhận có máy điện thoại hay máy điện báo riêng.
- Phát theo thư: Điện báo phát theo thư là điện báo có yêu cầu cơ sở bưu điện đến chuyển cho người nhận bằng đường thư. Người gửi có thể yêu cầu chuyển điện báo cho người nhận theo thư thường, theo thư ghi số, theo thư máy bay thường hay theo thư máy bay ghi số.
- Phát ngày: Điện báo phát ngày là điện báo có yêu cầu phát cho người nhận vào ban ngày, không được phát vào ban đêm.
- Phát đêm: Điện báo phát đêm là điện báo có yêu cầu phát cho người nhận vào ban đêm. Nhưng nếu điện báo đến và ban ngày thì cũng được phát ngay.
- Phát định ngày: Điện báo phát định ngày là điện báo yêu cầu phát cho người nhận vào một ngày nhất định.
- Phát tận tay: Điện báo phát tận tay là điện báo có yêu cầu phát trực tiếp và đúng cho người có tên trên địa chỉ bức điện báo.
- Lưu ký: Điện báo lưu ký là điện báo có yêu cầu giữ lại tại cơ sở bưu điện đến, để người có tên ở địa chỉ bức điện báo trực tiếp đến nhận.
- Mừng; Tang: Điện báo mừng hay điện báo tang là điện báo có yêu cầu bưu điện dùng ấn phẩm đặc biệt để sao lại và phát cho người nhận, phù hợp với nội dung báo tin vui, chúc mừng hay báo tang, chia buồn về tang lễ.
Điều 33.- Điện báo có thể viết bằng minh ngữ, bằng mật ngữ hoặc lẫn lộn minh ngữ và mật ngữ.
Minh ngữ được dùng trong điện báo gồm có:
- Tiếng Việt-nam (tiếng phổ thông và tiếng dân tộc),
- Tiếng các nước xã hội chủ nghĩa,
- Tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Tây-ban-nha,
- Tiếng các nước có quan hệ kinh tế, văn hoá, ngoại giao với nước Việt-nam dân chủ cộng hoà,
- Những minh ngữ khác được nước nhận điện báo chấp nhận.
Chỉ các cơ quan Đảng và Nhà nước các cấp, các đoàn thể từ cấp huyện hoặc tương đương trở lên, các cơ quan đại sứ, cơ quan tổng đại diện, đại diện, lãnh sự, các phái đoàn nước ngoài mới được dùng mật ngữ để viết điện báo.
Các tổ chức thương mại, hàng hải của nước Việt-nam dân chủ cộng hoà hay của các nước có quan hệ thương mại, hàng hải với nước Việt-nam dân chủ cộng hoà được dùng mã luật thương mại, hàng hải quốc tế thông dụng, nhưng phải ghi tên mã luật trên bức điện báo.
Trường hợp đặc biệt, bưu điện có thể đòi hỏi người gửi xuất trình giấy tờ căn cước.
Sau khi gửi, người gửi có thể yêu cầu hủy bỏ bức điện báo và phải trả cước cho yêu cầu hủy bỏ này.
Điều 41.- Người sử dụng điện báo phải trả đủ cước.
Cước của một bức điện báo gồm có:
- Cước chính về những từ trong bức điện báo phải chuyển đi; cước chính được tính tùy theo loại điện báo; đối với điện báo ngoài nước, cước chính còn được tính tùy theo hướng chuyển điện báo;
- Cước phụ về công vụ đặc biệt mà người sử dụng yêu cầu (nếu có).
Nếu người nhận ở ngoài khu vực phát điện báo của cơ sở bưu điện đến thì cơ sở bưu điện này phải chuyển phát bức điện báo cho người nhận theo chuyến thư gần nhất.
Điều 44.- Đối tượng phát điện báo được quy định như sau:
a) Điện báo gửi cho tư nhân có địa chỉ ở nhà riêng được phát cho người nhận hoặc cho người nhà đã trưởng thành của người nhận tại địa chỉ ghi trên bức điện báo.
b) Điện báo gửi cho tổ chức, cơ quan hay cá nhân trong một tổ chức, cơ quan, có thể được phát cho nhân viên văn thư, nhân viên thường trực hoặc liên lạc viên, những người này phải được tổ chức, cơ quan ấy chính thức ủy quyền và giới thiệu với bưu điện.
Điều 46.- Người nhận điện báo phải kê nhận đầy đủ trên biên lai phát điện báo.
Người nhận thay người có tên trên địa chỉ bức điện báo phải bảo quản cẩn thận bức điện báo và giao lại ngay cho người nhận chính thức, không được làm thất lạc, mất mát, chậm trễ, không được bóc xem bức điện báo, không được tiết lộ cho người khác biết bất cứ điều gì thuộc về bức điện báo mà mình nhận thay. Nếu không phát lại cho người nhận chính thức thì người nhận thay phải ghi rõ lý do trên bức điện báo và giao trả lại kịp thời cho bưu điện.
Trong trường hợp bức điện báo bị phát nhầm người nhận nhầm phải giao trả lại ngay cho bưu điện để bưu điện kịp thời phát đúng cho người nhận.
Đối với điện báo không phát được, bưu điện không hoàn lại cước đã thu, trừ cước phụ và những công vụ đặc biệt báo phát, báo trả có cước trả lời, nếu có, thì được hoàn lại cho người gửi.
KHIẾU NẠI VÀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI
Người khiếu nại cần cung cấp chứng từ cần thiết để bưu điện tiện việc điều tra.
Trong thời hạn chậm nhất hai tháng kể từ ngày hôm sau ngày nhận khiếu nại, bưu điện phải báo cho người khiếu nại biết kế quả điều tra, giải quyết.
Ngành bưu điện không phải bồi thường những thiệt hại gián tiếp, những hậu quả do những thiếu sót, sai lầm nói trên có thể gây ra cho người gửi điện báo hay người nhận điện báo. Tuy nhiên, đối với cán bộ, nhân viên phạm lỗi cũng như đối với người phụ trách trực tiếp, ngành bưu điện phải thi hành kỷ luật hành chính hoặc truy tố trước pháp luật tùy theo mức độ phạm lỗi và hậu quả gây ra.
Điều lệ này được ban hành kèm theo Nghị định số 94-CP ngày 07-05-1973 của Hội đồng Chính phủ.
Trong hoạt động và sinh hoạt hàng ngày của nhân dân, các tổ chức xã hội, các cơ quan Nhà nước, việc sử dụng bưu điện để giao dịch, trao đổi, thông tin liên lạc là một nhu cầu rất cần thiết không thể thiếu được.
Ngành bưu điện có trách nhiệm tổ chức tốt việc phục vụ các nhu cầu nói trên. Điều lệ này quy định những nguyên tắc và thể thức về thông tin điện thoại, để một bên là người sử dụng và một bên là ngành bưu điện, thi hành đúng đắn, nhằm bảo đảm cho công tác thông tin điện thoại được nhanh chóng, chính xác, an toàn và tiện lợi nhất.
Các ngành khác muốn đặt mạng lưới thông tin điện thoại riêng phải được sự thoả thuận trước của bưu điện, phải chịu sự kiểm soát về kỹ thuật của bưu điện và chỉ được dùng mạng lưới đó vào việc thông tin trong nội bộ ngành mình.
Các ngành có mạng lưới thông tin điện thoại riêng nói trên, muốn nối mạng lưới riêng vào mạng lưới điện thoại của bưu điện phải được sự thoả thuận trước của bưu điện.
Mọi cuộc điện thoại thông qua mạng lưới điện thoại của bưu điện phải theo đúng nhưng quy định trong điều lệ này.
Người làm công tác bưu điện không được nghe các cuộc điện thoại của người sử dụng; không được tiết lộ tên người sử dụng điện thoại hoặc nội dung cuộc điện thoại nếu biết được trong khi làm nhiệm vụ, trừ trường hợp đặc biệt được pháp luật quy định.
Điều 4.- Bưu điện có trách nhiệm phục vụ người sử dụng điện thoại bất cứ ngày đêm.
Máy điện thoại mà bưu điện đặt riêng cho tổ chức hay tư nhân dùng để nói điện thoại gọi là máy điện thoại thuê riêng; máy điện thoại đặt tại các cơ sở bưu điện hoặc các nơi tập trung đông dân gọi là máy điện thoại công cộng.
Tổ chức hay tư nhân có máy điện thoại thuê riêng gọi là người thuê máy điện thoại.
Người sử dụng điện thoại bao gồm mọi tổ chức và tư nhân trong nước hay nước ngoài gọi điện thoại hoặc trả lời điện thoại tại nước Việt-nam dân chủ cộng hoà.
Người thuê máy muốn nhường máy cho người khác hoặc cần đổi tên người dùng máy, đều phải báo cho bưu điện biết trước.
Bưu điện có trách nhiệm bảo đảm dây máy thuê riêng luôn luôn tốt; nếu có hư hỏng phải sửa chữa hay thay thế kịp thời.
Trong trường hợp phải cắt ngay liên lạc hoặc hạn chế thời gian liên lạc, bưu điện phải báo cho người sử dụng biết.
Điện thoại đường dài trao đổi trong phạm vi lãnh thổ nước Việt-nam dân chủ cộng hoà gọi là điện thoại đường dài trong nước; điện thoại đường dài trao đổi giữa nước Việt-nam dân chủ cộng hoà với nước ngoài gọi là điện thoại đường dài ngoài nước.
Mục 1 – Điện thoại đường dài trong nước
Điều 16.- Điện thoại đường dài trong nước gồm có các loại:
- Điện thoại phòng không,
- Điện thoại công,
- Điện thoại nghiệp vụ,
- Điện thoại tư.
Bưu điện phải phục vụ loại điện thoại phòng không trước tất cả các loại khác, không được trì hoãn.
Mỗi cuộc điện thoại phòng không không được kéo dài quá 3 phút.
Các cơ quan đại sứ, tổng đại diện, đại diện, lãnh sự, các phái đoàn nước ngoài dùng điện thoại công để giải quyết việc công trong phạm vi lãnh thổ nước Việt-nam dân chủ cộng hoà.
Điện thoại công do các vị lãnh đạo Đảng và chính quyền các cấp gọi đi phải được bưu điện phục vụ trước các cuộc điện thoại công tác.
Mục 2 – Điện thoại đường dài ngoài nước
Điều 21.- Điện thoại đường dài ngoài nước gồm có các loại:
- Điện thoại cấp cứu,
- Điện thoại an toàn hàng không,
- Điện thoại quốc vụ,
- Điện thoại nghiệp vụ,
- Điện thoại tư,
- Điện thoại báo chí.
Tổng cục Bưu điện, căn cứ vào hiệp định đã ký kết với nước ngoài, thông báo những loại điện thoại được trao đổi với từng nước và giá cước quy định cho từng loại.
Điện thoại cấp cứu cũng gồm cả điện thoại đặc biệt khẩn cấp về dịch tễ của tổ chức bảo vệ sức khoẻ thế giới.
- Các vị lãnh đạo Đảng của các nước xã hội chủ nghĩa;
- Các vị đứng đầu Nhà nước;
- Các vị lãnh đạo Quốc hội, Chính phủ và các thành viên trong Chính phủ;
- Các tổng tư lệnh Quân đội, tư lệnh các binh chủng;
- Các đại sứ, các tổng đại diện, đại diện lãnh sự.
Mục 3 – Các công vụ đặc biệt dùng trong điện thoại đường dài trong nước và ngoài nước
Điều 29.- Các công vụ đặc biệt gồm có:
- Khẩn: Điện thoại khẩn là cuộc điện thoại có yêu cầu bưu điện phải phục vụ ưu tiên trước các cuộc điện thoại thường.
- Có báo trước: Điện thoại có báo trước là cuộc điện thoại có yêu cầu bưu điện phải báo cho người được gọi có máy thuê riêng biết trước.
- Có giấy mời: Điện thoại có giấy mời là cuộc điện thoại có yêu cầu bưu điện phải mời người được gọi không có máy thuê riêng đến cơ sở bưu điện hoặc đến một máy thuê riêng nhất định để trả lời.
- Thu cước ở người được gọi: Điện thoại thu cước ở người được gọi là cuộc điện thoại có yêu cầu bưu điện thu cước ở người được gọi.
- Định giờ: Điện thoại định giờ là cuộc điện thoại có yêu cầu bưu điện cho liên lạc với người được gọi vào giờ phút nhất định.
- Hỏi tin: Điện thoại hỏi tin là cuộc điện thoại mà người gọi yêu cầu bưu điện cho mình biết những tin tức về người cần được gọi để có thể xin liên lạc với người ấy.
- Định kỳ: Điện thoại định kỳ là cuộc điện thoại có yêu cầu bưu điện cho liên lạc thường xuyên trong phạm vi thời hạn nhất định giữa 2 máy thuê riêng nhất định, vào giờ phút nhất định đã ghi trong hợp đồng ký kết giữa bưu điện với người sử dụng.
- Phát thanh truyền hình: Điện thoại phát thanh hay truyền hình là cuộc điện thoại mà người gọi yêu cầu nơi được gọi phải ghi thu lại để dùng cho phát thanh hay truyền hình.
Mục 4 – Liên lạc điện thoại đường dài trong nước và ngoài nước
Trong trường hợp phải cắt ngay liên lạc hoặc hạn chế thời gian liên lạc, bưu điện phải báo cho người sử dụng biết.
Điều 36.- Người sử dụng điện thoại phải trả đủ cước. Cước một cuộc điện thoại đường dài gồm có:
- Cước chính tính theo thời gian liên lạc, theo loại điện thoại, theo đường liên lạc;
- Cước phụ về công vụ đặc biệt mà người gọi yêu cầu (nếu có).
Nơi nhận khiếu nại phải nhanh chóng điều tra và báo kết quả cho người khiếu nại biết.
Ngành bưu điện không phải bồi thường những thiệt hại gián tiếp, những hậu quả do những sai sót nói trên có thể gây ra cho người sử dụng. Tuy nhiên đối với cán bộ, nhân viên phạm lỗi cũng như đối với người phụ trách trực tiếp, ngành bưu điện phải thi hành kỷ luật hành chính hoặc truy tố trước pháp luật tùy theo mức độ phạm lỗi và hậu quả gây ra.
Điều lệ này được ban hành kèm theo Nghị định số 94-CP ngày 07-05-1973 của Hội đồng Chính phủ.
- 1 Thông tư 13-PC-1987 hướng dẫn thi hành Điều lệ Bưu chính và Viễn thông do Tổng cục Bưu điện ban hành
- 2 Thông tư 1-74 năm 1974 sửa đổi các loại điện báo trong nước, bổ sung một số công vụ đặc biệt và điều chỉnh thứ tự chuyển điện báo do Tổng cục Bưu điện ban hành
- 3 Nghị định 105-NĐ năm 1956 điều lệ tạm thời về sử dụng điện báo trong nước, điện thoại đường dài trong nước và điện thoại trong thành thị trong toàn miền Bắc Việt Nam do Bộ trưởng Bộ Giao Thông và Bưu Điện ban hành.
- 1 Nghị định 105-NĐ năm 1956 điều lệ tạm thời về sử dụng điện báo trong nước, điện thoại đường dài trong nước và điện thoại trong thành thị trong toàn miền Bắc Việt Nam do Bộ trưởng Bộ Giao Thông và Bưu Điện ban hành.
- 2 Thông tư 1-74 năm 1974 sửa đổi các loại điện báo trong nước, bổ sung một số công vụ đặc biệt và điều chỉnh thứ tự chuyển điện báo do Tổng cục Bưu điện ban hành
- 3 Thông tư 13-PC-1987 hướng dẫn thi hành Điều lệ Bưu chính và Viễn thông do Tổng cục Bưu điện ban hành