Nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng
Ngày gửi: 07/08/2015 lúc 23:02:24
Câu hỏi:
Câu trả lời tham khảo:
Hệ thống pháp luật Việt Nam (hethongphapluat.com) xin chân thành cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến chúng tôi. Sau khi nghiên cứu, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi xin đưa ra câu trả lời có tính chất tham khảo như sau:
1. Căn cứ pháp lý
Bộ luật dân sự năm 2005
Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi năm 2009
Luật hôn nhân gia đình năm 2014
2. Nội dung tư vấn
Căn cứ khoản 1, Điều 124 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể.Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch bằng văn bản. Vì vậy viêc vay tiền bằng lời nói vẫn được coi là giao dịch dân sự. Tuy nhiên, trường hợp của anh, nếu muốn khởi kiện đòi lại tài sản thì trước hết anh phải có những căn cứ chứng minh là vợ anh đã vay tiền của bố, mẹ anh. Khi không có giấy tờ vay nợ chứng minh và chỉ với những chứng cứ như anh nói về việc vợ anh mở cửa hàng cũng không thể đủ căn cứ chứng minh vợ anh đã vay của bố mẹ anh 190 triệu đồng.
Nếu anh có những chứng cứ thuyết phục hơn ví dụ như ghi âm, hình ảnh, tin nhắn… có nội dung chứng minh việc vợ anh đã vay tiền bố, mẹ anh thì mới có căn cứ để khởi kiện đòi tài sản. Trước hết, sau khi có được chứng cứ thì anh nên thương lượng để vợ anh trả tiền cho bố, mẹ anh. Nếu vợ anh vẫn có hành vi trốn tránh trách nhiệm không trả nợ thì anh có thể tố cáo ra cơ quan công an về hành vi lợi dụng tín nhiệm, chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Khoản 2, Điều 140, Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi năm 2009 và theo đó vợ anh có thể bị xử phạt tù từ 2 năm đến 7 năm.
Nếu anh có đủ chứng cứ chứng minh việc vợ anh vay tiền bố mẹ anh mà cô ấy chưa đủ năng trả nợ nhưng cũng không có hành vi trốn tránh nghĩa vụ thì anh có thể làm đơn khởi kiện đòi tài sản ra cơ quan tòa án cấp quận, huyện để giải quyết.
Tuy nhiên, Căn cứ quy định tại Điều 37, Luật hôn nhân gia đình năm 2014 như sau:
“ Điều 37. Nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng
Vợ chồng có các nghĩa vụ chung về tài sản sau đây:
>>> Luật sư tư vấn pháp luật hôn nhân qua tổng đài: 024.6294.9155
1. Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm;
2. Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình;
3. Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;
4. Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình;
5. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường;
6. Nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan.”
Vì tài sản vợ anh vay trong thời kì hôn nhân và có mục đích đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình, chăm lo cho con, sinh hoạt hằng ngày nên anh cũng có nghĩa vụ liên đới trong việc trả nợ Khoản 2, Điều 27, Luật hôn nhân gia đình năm 2014. Vì vậy, theo nguyên tắc thì anh phải trả một nửa số tiền cho bố mẹ anh và vợ anh chỉ phải trả nửa số tiền còn lại tương ứng với 95 triệu đồng.
Trên đây là câu trả lời của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam liên quan đến yêu cầu câu hỏi của bạn. Hy vọng câu trả lời của chúng tôi sẽ hữu ích cho bạn.
Nếu có bất cứ vướng mắc gì về pháp lý mời bạn tiếp tục đặt câu hỏi. Chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp.
Trân trọng cảm ơn.
BBT.Hệ Thống Pháp Luật Việt nam
Gửi yêu cầu tư vấn
Chi tiết xin liên hệ:
Tổng đài: 024.6294.9155
Hotline: 0984.988.691