Hệ thống pháp luật

Nhận tiền xin việc rồi bỏ trốn

Ngày gửi: 07/08/2015 lúc 23:02:24

Mã số: HTPL40788

Câu hỏi:

Tôi có đưa tiền cho một người bạn số tiền 180 triệu để xin việc cho con tôi vô công ty của chồng cô ấy. Cô ấy hẹn hai tháng sau sẽ giúp cho con tôi vô làm được. Nếu không cô sẽ hoàn trả tiền lại cho tôi. Nhưng đã qua sáu tháng rồi mà cô không trả lại tiền cho tôi được và đồng thời bỏ trốn đi mất khỏi nhà Nay tôi muốn làm đơn khỏi kiện cô ấy về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của tôi thì tôi phải tiến hành thủ tục như thế nào? (khi tôi giao tiền xin việc cho con tôi cô ấy có làm giấy nhận tiền và có người làm chứng cụ thể ký trên giấy nhận tiền) cho hợp lý. Và nếu khỏi kiện thì vấn đề này có phải quy vào tội gì. Xin quý công ty tư vấn giúp tôi. 

Câu trả lời tham khảo:

Hệ thống pháp luật Việt Nam (hethongphapluat.com) xin chân thành cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến chúng tôi. Sau khi nghiên cứu, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi xin đưa ra câu trả lời có tính chất tham khảo như sau:

Tại Điều 139 Bộ luật hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:

“Điều 139. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ  sáu tháng đến ba năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

a) Có tổ chức;

c) Tái phạm nguy hiểm;

d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

g) Gây hậu quả nghiêm trọng.

3. Phạm tội thuộc một  trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây,  thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”.

Đối với trường hợp của bạn, bạn có đưa tiền cho một người bạn số tiền 180 triệu để xin việc cho con. Người bạn này hẹn hai tháng sau sẽ giúp cho con bạn vào làm, nếu không sẽ hoàn trả tiền lại cho bạn. Nhưng đã qua sáu tháng mà người bạn này không trả lại tiền cho bạn và đồng thời bỏ trốn đi mất khỏi nhà. Xét hành vi của người bạn này thấy rằng đã có thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt số tiền 180 triệu bạn nhờ xin việc cho con bạn. Tuy nhiên còn phụ thuộc hành vi gian dối đó có thể hiện qua nội dung mà người này có cung cấp không để có cơ sở.

Như vậy, trong trường hợp của bạn có thể xét thấy rằng người bạn này đang có thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của bạn với số tiền 180 triệu thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 139 Bộ luật hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Trong trường này bạn có thể làm đơn tố cáo gửi tới cơ quan Công an để Công an tiến hành điều tra, xác minh. Tại Điều 101 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2003 có quy định về tố giác và tin váo về tội phạm như sau:

Bỏ trốn khi công an triệu tập thì phải chịu trách nhiệm hình sự như thế nào?

"Điều 101. Tố giác và tin báo về tội phạm

Công dân có thể tố giác tội phạm với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc với các cơ quan khác, tổ chức. Nếu tố giác bằng miệng thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản và có chữ ký của người tố giác.

Cơ quan, tổ chức khi phát hiện hoặc nhận được tố giác của công dân phải báo tin ngay về tội phạm cho Cơ quan điều tra bằng văn bản".

Căn cứ vào quy định này thì trong trường hợp của bạn. Nếu như người bị hại không thể tố cáo đến cơ quan Công an thì bạn có thể làm đơn tố giác hoặc đến trực tiếp đến cơ quan Công an để trình báo với cơ quan Công an về hành vi của người cha này.

Trên đây là câu trả lời của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam liên quan đến yêu cầu câu hỏi của bạn. Hy vọng câu trả lời của chúng tôi sẽ hữu ích cho bạn.

Nếu có bất cứ vướng mắc gì về pháp lý mời bạn tiếp tục đặt câu hỏi. Chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp.

Trân trọng cảm ơn.

BBT.Hệ Thống Pháp Luật Việt nam

Lưu ý: Nội dung tư vấn của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam trên đây chỉ mang tính tham khảo. Tùy vào từng thời điểm và đối tượng khác nhau mà nội dung tư vấn trên có thể sẽ không còn phù hợp do sự thay đổi của chính sách hay quy định mới của pháp luật.

Gửi yêu cầu tư vấn