Hệ thống pháp luật
Đang tải nội dung, vui lòng chờ giây lát...
Đang tải nội dung, vui lòng chờ giây lát...

UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 28-L/CTN

Hà Nội, ngày 02 tháng 12 năm 1993

PHÁP LỆNH

SỐ 28-L/CTN NGÀY 02/12/1993 CỦA UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH GIỮA CÔNG DÂN VIỆT NAM VỚI NGƯỜI NƯỚC NGOÀI

CHỦ TỊCH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Căn cứ vào Điều 103 và Điều 106 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992;
Căn cứ vào Điều 78 của Luật Tổ chức Quốc hội,

NAY CÔNG BỐ:

Pháp lệnh Hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài đã được Uỷ ban thường vụ Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (khoá IX) thông qua ngày 2 tháng 12 năm 1993.

PHÁP LỆNH

HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH GIỮA CÔNG DÂN VIỆT NAM VỚI NGƯỜI NƯỚC NGOÀI

Căn cứ vào các điều 14, 75, 81 và 91 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992;
Căn cứ vào Luật hôn nhân và gia đình;
Pháp lệnh này quy định về hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài.

Chương 1:

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1

1- Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được tôn trọng và bảo vệ phù hợp với các quy định của Hiến pháp, Luật hôn nhân và gia đình Pháp lệnh này và các quy định khác của pháp luật Việt Nam, cũng như các quy định về hôn nhân và gia đình trong các điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia.

2- Trong quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài tại Việt Nam, người nước ngoài được hưởng quyền và có nghĩa vụ như pháp luật Việt Nam quy định cho công dân Việt Nam.

Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ quyền lợi chính đáng của công dân Việt Nam ở nước ngoài trong quan hệ hôn nhân và gia đình với người nước ngoài, phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật và tập quán quốc tế.

3- Trong pháp lệnh này, "Người nước ngoài" được hiểu là người không có quốc tịch Việt Nam.

Điều 2

1- Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài.

Quản lý Nhà nước bao gồm các nội dung chủ yếu sau đây:

a) Soạn thảo các dự án luật và pháp lệnh trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội; ban hành văn bản pháp quy thi hành Luật hôn nhân và gia đình và Pháp lệnh này;

b) Chỉ đạo và hướng dẫn việc thực hiện pháp luật về hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài;

c) Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật và giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài;

d) Thực hiện việc bảo hộ quyền và lợi ích chính đáng của công dân Việt Nam ở nước ngoài trong quan hệ hôn nhân và gia đình với người nước ngoài;

đ) Thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài.

2- Bộ tư pháp thực hiện việc quản lý Nhà nước trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài.

Các Bộ, cơ quan ngang Bộ và cơ quan thuộc Chính phủ, trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình, có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp thực hiện việc quản lý Nhà nước trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài theo quy định của Chính phủ.

3- Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện việc quản lý Nhà nước trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài ở địa phương mình theo quy định của Chính phủ.

Điều 3

1- Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm quyền giải quyết việc đăng ký kết hôn, nhận con ngoài giá thú, nuôi con nuôi và đỡ đầu giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài theo quy định của Pháp lệnh này và quy định của Chính phủ; Sở Tư pháp có trách nhiệm giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong việc thực hiện nhiệm vụ này.

2- Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của Việt Nam có thẩm quyền giải quyết việc đăng ký kết hôn, nuôi con nuôi, đỡ đầu tại nước ngoài giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài theo quy định của pháp luật; có trách nhiệm bảo hộ quyền và lợi ích chính đáng của công dân Việt Nam tại nước ngoài trong quan hệ hôn nhân và gia đình với người nước ngoài.

3- Toà án nhân dân có thẩm quyền huỷ việc kết hôn trái pháp luật, xét xử các vụ án về ly hôn, giải quyết tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, của cha mẹ và con, về nhận con ngoài giá thú, về yêu cầu cấp dưỡng, nuôi con nuôi và đỡ đầu giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài theo quy định của pháp luật.

Điều 4

Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam chỉ xem xét các giấy tờ, tài liệu của nước ngoài liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài sau khi các giấy tờ, tài liệu đó đã được cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài hoặc Bộ Ngoại giao Việt Nam hợp pháp hoá.

Các giấy tờ, tài liệu bằng tiếng nước ngoài phải được dịch ra tiếng Việt và được chứng thực hợp pháp.

Điều 5

Trong việc giải quyết quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam chỉ áp dụng pháp luật nước ngoài trong trường hợp được Pháp lệnh này quy định và việc áp dụng đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam hoặc không gây phương hại đến chủ quyền, an ninh của Việt Nam; nếu việc áp dụng pháp luật nước ngoài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam hoặc gây phương hại đến chủ quyền, an ninh của Việt Nam, thì áp dụng pháp luật Việt Nam.

Chương 2:

QUAN HỆ HÔN NHÂN

Mục 1: KẾT HÔN

Điều 6

1- Trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước mình về điều kiện kết hôn và cấm kết hôn.

Nếu việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài tiến hành trước cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam thì người nước ngoài còn phải tuân theo các quy định tại các điều 5, 6 và 7 của Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, không bị nhiễm HIV và được cơ quan có thẩm quyền của nước mà người đó là công dân xác nhận có đủ điều kiện kết hôn và việc kết hôn đó được pháp luật nước họ công nhân.

2- Công dân Việt Nam đang phục vụ trong Quân đội, trong các ngành liên quan đến bí mật quốc gia, khi kết hôn với người nước ngoài phải được cơ quan chủ quản xác nhận việc họ kết hôn với người nước ngoài không trái quy chế của ngành đó quy định.

3- Việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài tiến hành trước cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam phải tuân theo nghi thức kết hôn quy định tại Điều 8 của Luật hôn nhân và gia đình.

Chính phủ quy định thủ tục kết hôn giữa công dân việt nam với người nước ngoài.

4- Việc kết hôn giữa công dân việt nam với người nước ngoài được tiến hành ở nước ngoài và tuân theo pháp luật nước đó về nghi thức kết hôn thì được công nhận tại Việt Nam, trừ trường hợp việc kết hôn đó có ý định rõ ràng là để lẩn tránh quy định của pháp luật Việt Nam về điều kiện kết hôn và cấm kết hôn.

Điều 7

Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi thường trú của công dân Việt Nam có thẩm quyền đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài.

Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của Việt Nam có thẩm quyền đăng ký kết hôn tại nước tiếp nhận giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, nếu việc đăng ký không trái với pháp luật của nước đó.

Mục 2: HUỶ BỎ VIỆC KẾT HÔN

Điều 8

Việc kết hôn giữa công dân việt nam với người nước ngoài vi phạm một trong các quy định tại Điều 6 của Pháp lệnh này là trái pháp luật.

Một hoặc hai bên đã kết hôn trái pháp luật, vợ, chồng hoặc con của người đang có vợ, có chồng kết hôn với người khác, Viện kiểm sát nhân dân, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam có quyền yêu cầu Toà án có thẩm quyền của Việt Nam huỷ việc kết hôn trái pháp luật đó.

Điều 9

1- Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi thường trú của công dân Việt Nam có thẩm quyền huỷ việc kết hôn trái pháp luật giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài; nếu công dân Việt Nam không còn thường trú tại Việt Nam thì thẩm quyền thuộc Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi thường trú cuối cùng của người đó tại Việt Nam.

2- Tài sản của những người mà hôn nhân bị huỷ cũng như quyền lợi của con được giải quyết theo quy định tại Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình.

Mục 3: QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA VỢ CHỒNG

Điều 10

1- Quyền và nghĩa vụ liên quan đến quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản của vợ chồng được xác định theo pháp luật của nước nơi thường trú chung của họ vào thời điểm phát sinh tranh chấp; nếu họ không có nơi thường trú chung vào thời điểm đó thì theo pháp luật của nước nơi thường trú chung cuối cùng của họ; trong trường hợp họ chưa hề có nơi thường trú chung thì theo pháp luật Việt Nam.

Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng liên quan đến bất động sản có tại Việt Nam được xác định theo pháp luật Việt Nam.

2- Trong trường hợp pháp luật Việt Nam được áp dụng theo quy định tại khoản 1 Điều này thì quyền và nghĩa vụ của vợ chồng được xác định theo quy định tại các điều từ Điều 10 đến Điều 18 của Luật hôn nhân và gia đình.

Điều 11

Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi thường trú của công dân Việt Nam có thẩm quyền giải quyết tranh chấp liên quan đến quyền và nghĩa vụ của vợ chồng.

Nếu việc tranh chấp liên quan đến bất động sản có tại Việt Nam thì thẩm quyền giải quyết thuộc Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có bất động sản.

Mục 4: LY HÔN

Điều 12

1- Việc ly hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, cũng như các việc phát sinh từ ly hôn, được giải quyết theo pháp luật của nước nơi thường trú chung của họ vào thời điểm đưa đơn xin ly hôn; nếu họ không có nơi thường trú chung vào thời điểm đó, thì theo pháp luật của nước nơi thường trú chung cuối cùng của họ; nếu họ chưa hề có nơi thường trú chung, thì theo pháp luật Việt Nam.

Trong trường hợp pháp luật Việt Nam được áp dụng thì việc giải quyết ly hôn, chia tài sản, giao con chưa thành niên cho vợ hoặc chồng nuôi dưỡng, cũng như quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với con chung được xác định theo quy định tại các điều từ Điều 40 đến Điều 45 của Luật Hôn nhân và gia đình.

2- Việc ly hôn của công dân Việt Nam với người nước ngoài đã được giải quyết ở nước ngoài và phù hợp với pháp luật nước đó thì được công nhận tại Việt Nam, nếu vào thời điểm ly hôn có ít nhất một người thường trú tại nước ngoài.

Việc công nhận bản án, quyết định ly hôn của Toà án nước ngoài phải tuân theo các quy định của Pháp lệnh Công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài.

Điều 13

Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi thường trú của bị đơn có thẩm quyền giải quyết việc ly hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài; nếu bị đơn không có nơi thường trú tại Việt Nam thì thẩm quyền giải quyết thuộc Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi thường trú của nguyên đơn.

Trong trường hợp cả bị đơn và nguyên đơn đều không có nơi thường trú tại Việt Nam, nhưng có bất động sản tại Việt Nam liên quan đến việc chia tài sản khi ly hôn, thì thẩm quyền giải quyết việc chia bất động sản đó thuộc Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có bất động sản.

Chương 3:

QUAN HỆ GIA ĐÌNH

Mục 1: QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CHA MẸ VÀ CON; XÁC ĐỊNH CHA, MẸ CHO CON

Điều 14

1- Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con được xác định theo pháp luật của nước nơi thường trú chung của họ vào thời điểm phát sinh tranh chấp; nếu họ không có nơi thường trú chung vào thời điểm đó, thì theo pháp luật của nước nơi thường trú chung cuối cùng của họ; trong trường hợp họ chưa hề có nơi thường trú chung thì theo pháp luật Việt Nam.

Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha mẹ và con được xác định theo pháp luật của nước nơi thường trú của người yêu cầu cấp dưỡng vào thời điểm đưa đơn yêu cầu.

2- Việc xác định cha, mẹ cho con được tiến hành theo pháp luật của nước nơi thường trú của người con vào thời điểm có đơn yêu cầu.

3- Trong trường hợp pháp luật Việt Nam được áp dụng theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con, quan hệ giữa các con, nguyên tắc xác nhận cha, mẹ cho con được xác định theo quy định tại các điều từ Điều 19 đến Điều 29, Điều 31 và Điều 32 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Điều 15

1- Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi thường trú của người có đơn yêu cầu có thẩm quyền giải quyết tranh chấp liên quan đến quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con, việc nhận con ngoài giá thú, các yêu cầu về cấp dưỡng.

Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi thường trú của người con có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về việc xác định cha, mẹ cho con.

2- Đối với việc cha mẹ nhận con ngoài giá thú, nếu cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam và người con có nơi thường trú tại Việt Nam thì Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi thường trú của người con có thẩm quyền công nhận.

Mục 2: NUÔI CON NUÔI

Điều 16

1- Việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài phải tuân theo quy định tại các Điều 34, 35 và 36 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi phải có các điều kiện sau đây:

a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo pháp luật của nước mà người đó là công dân;

b) Có tư cách đạo đức tốt và chưa hề bị tước quyền làm cha, mẹ;

c) Có sức khoẻ và khả năng kinh tế bảo đảm việc nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con nuôi;

d) Được cơ quan có thẩm quyền của nước mà người đó là công dân xác nhận có đủ điều kiện nuôi con nuôi và việc nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi được pháp luật nước họ công nhận.

Khi nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi, người nước ngoài phải cam kết định kỳ thông báo cho cơ quan Nhà nước quy định tại khoản 1 Điều 17 của Pháp lệnh này về tình trạng phát triển của con nuôi cho đến khi con nuôi đủ 18 tuổi.

Chính phủ quy định thủ tục về việc người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi.

2- Quyền và nghĩa vụ của người nuôi con nuôi, việc chấm dứt nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được xác định theo pháp luật của nước mà người nuôi là công dân; nếu cha mẹ nuôi có quốc tịch khác nhau, thì áp dụng pháp luật của nước nơi thường trú của con nuôi.

Trong trường hợp pháp luật Việt Nam được áp dụng theo quy định tại đoạn 1 khoản này, cũng như trong trường hợp việc nuôi con nuôi được thực hiện tại Việt Nam, thì quyền và nghĩa vụ của người nuôi và con nuôi, việc chấm dứt nuôi con nuôi được xác định theo quy định tại các điều từ Điều 19 đến Điều 27 và Điều 39 của Luật Hôn nhân và gia đình.

3- Việc công dân Việt Nam nuôi con nuôi là người nước ngoài đã được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thì được công nhận tại Việt Nam.

Điều 17

1- Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi thường trú của công dân Việt Nam có thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài.

Trong trường hợp con nuôi là công dân Việt Nam đang cư trú ở nước ngoài, thì Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan lãnh sự của Việt Nam có thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi đó, nếu việc đăng ký không trái với pháp luật của nước tiếp nhận; vi đệcăng ký được thực hiện sau khi có sự đồng ý bằng văn bản của Bộ Tư pháp Việt Nam đối với từng trường hợp.

2- Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi thường trú của công dân Việt Nam có thẩm quyền giải quyết tranh chấp liên quan đến việc cho và nhận con nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài; trong trường hợp con nuôi là công dân Việt Nam và không còn thường trú tại Việt Nam, thì thẩm quyền thuộc Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi thường trú cuối cùng tại Việt Nam của người đó.

3- Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi thường trú của con nuôi có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa người nuôi và con nuôi.

Mục 3: ĐỠ ĐẦU

Điều 18

1- Việc xác lập, thay đổi và chấm dứt đỡ đầu giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài phải tuân theo quy định tại các Điều 46, 47 và 51 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Người đỡ đầu và người được đỡ đầu phải có cùng một nơi thường trú.

2- Quyền và nghĩa vụ của người được đỡ đầu và người đỡ đầu được xác định theo pháp luật của nước nơi thường trú chung của họ.

Trong trường hợp người được đỡ đầu và người đỡ đầu cùng thường trú tại Việt Nam thì quyền và nghĩa vụ của họ được xác định theo quy định tại Điều 49 và Điều 50 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Điều 19

1- Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi thường trú của người được đỡ đầu có thẩm quyền giải quyết việc xác lập, thay đổi, chấm dứt việc đỡ đầu giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài.

Trong trường hợp người được đỡ đầu là công dân Việt Nam đang cư trú ở nước ngoài thì Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan lãnh sự của Việt Nam có thẩm quyền giải quyết việc đỡ đầu đó, nếu không trái với pháp luật của nước tiếp nhận; việc giải quyết được thực hiện sau khi có sự đồng ý bằng văn bản của Bộ Tư pháp Việt Nam đối với từng trường hợp.

2- Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi thường trú của người được đỡ đầu có thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh từ việc đỡ đầu giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài.

Chương 4:

ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH

Điều 20

Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác với quy định của Pháp lệnh này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.

Điều 21

1- Pháp luật áp dụng trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 6 và khoản 1, khoản 2 Điều 16 của Pháp lệnh này đối với người nước ngoài có hai hoặc nhiều quốc tịch là pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch và thường trú vào thời điểm phát sinh quan hệ hôn nhân và gia đình; nếu người đó không thường trú tại một trong các nước mà người đó có quốc tịch, thì áp dụng pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch và có quan hệ gắn bó nhất.

2- Pháp luật áp dụng trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 6 và khoản 1, khoản 2 Điều 16 của Pháp lệnh này đối với người không quốc tịch là pháp luật của nước nơi người đó thường trú; nếu người đó không có nơi thường trú thì áp dụng pháp luật Việt Nam.

Điều 22

Các quy định của Pháp luật này cũng được áp dụng đối với quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên định cư ở nước ngoài.

Điều 23

Pháp lệnh này có hiệu lực từ ngày 1 tháng 3 năm 1994.

Những quy định trước đây trái với Pháp lệnh này đều bãi bỏ.

Điều 24

Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, trong phạm vi chức năng của mình, có trách nhiệm quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh này.

Lê Đức Anh

(Đã ký)