Quan hệ với người đang có gia đình bị xử phạt thế nào?
Ngày gửi: 07/08/2015 lúc 23:02:24
Câu hỏi:
Câu trả lời tham khảo:
Hệ thống pháp luật Việt Nam (hethongphapluat.com) xin chân thành cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến chúng tôi. Sau khi nghiên cứu, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi xin đưa ra câu trả lời có tính chất tham khảo như sau:
1. Căn cứ pháp lý
2. Nội dung tư vấn
Theo quy định tại Điều 147 Bộ luật hình sự về Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng thì:
1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm.
2. Phạm tội trong trường hợp đã có quyết định của Toà án tiêu huỷ việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
Như vậy, tính tới thời điểm hiện tại, pháp luật Việt Nam mới chỉ có hình phạt quy định đối với hành vi vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng khi một người có quan hệ chung sống như vợ chồng với người khác ngoài cuộc sống hôn nhân hợp pháp do Nhà nước, pháp luật công nhận và bảo hộ. Người vi phạm chỉ bị kết tội khi việc chung sống dẫn đến hậu quả nghiêm trọng khiến gia đình người kia ly hôn, vợ chồng con cái một bên tự sát hoặc đã bị xử phạt hành chính mà tái phạm.
Nhưng theo trình bày của bạn thì bạn có quan hệ với 1 người đã có gia đình bị phát hiện và gia đình người kia cũng chưa dẫn đến tình trạng ly hôn nhưng lại không nói rõ về mối quan hệ này có phải là chung sống như vợ chồng (được hiểu là có cuộc sống sinh hoạt, tài sản, con cái chung) hay không nên căn cứ vào kết quả của cơ quan chính quyền thì có thể bạn không bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc phạt hành chính về hành vi vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng.
Do đó, khi bạn không có dấu hiệu của hành vi phạm tội thì người chồng không có đủ căn cứ để khởi kiện bạn mặc dù giữa 2 người có thỏa thuận, biên bản có chữ ký của công an xã ghi lại.
Về việc người chồng yêu cầu bạn nộp phạt 30 triệu đồng, tại Điều 135 Bộ luật hình sự 1999 quy định như sau:
Điều 135. Tội cưỡng đoạt tài sản
1. Người nào đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
đ) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Căn cứ vào quy định nêu trên, nếu hành vi của người chồng có dấu hiệu sử dụng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản của bạn thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tội cưỡng đọat tài sản .
Trên đây là câu trả lời của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam liên quan đến yêu cầu câu hỏi của bạn. Hy vọng câu trả lời của chúng tôi sẽ hữu ích cho bạn.
Nếu có bất cứ vướng mắc gì về pháp lý mời bạn tiếp tục đặt câu hỏi. Chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp.
Trân trọng cảm ơn.
BBT.Hệ Thống Pháp Luật Việt nam
Gửi yêu cầu tư vấn
Chi tiết xin liên hệ:
Tổng đài: 024.6294.9155
Hotline: 0984.988.691