Hệ thống pháp luật

Quyền bình đẳng giữa vợ chồng đối với tài sản chung

Ngày gửi: 16/01/2020 lúc 11:31:12

Mã số: HTPL35715

Câu hỏi:

Nếu một người bố bỏ vợ con lúc vợ ốm đau đi gần 20 năm đi lấy vợ khác, nhưng trong sổ đỏ nhà đất đến giờ vẫn còn tên của cả vợ chồng thì quy định của pháp luật về quyền của từng người như thế nào trong trường hợp này. Ông ấy vẫn có quyền lợi là nửa tài sản hay thế nào? Em cần được tư vấn, mong anh chị tư vấn giúp em!

Câu trả lời tham khảo:

Hệ thống pháp luật Việt Nam (hethongphapluat.com) xin chân thành cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến chúng tôi. Sau khi nghiên cứu, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi xin đưa ra câu trả lời có tính chất tham khảo như sau:

1. Căn cứ pháp lý

Luật hôn nhân và gia đình 2014

2. Nội dung tư vấn

Theo quy định tại Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình 2014 về tài sản chung của vợ chồng như sau:

Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật hôn nhân và gia đình 2014; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

>>> Luật sư tư vấn quyền bình đẳng giữa vợ chồng đối với tài sản chung: 024.6294.9155  

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.

Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.

Khoản 1 Điều 29 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định nguyên tắc chung về chế độ tài sản của vợ chồng như sau:

“1. Vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập.”

Tài sản này là tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân, người bố bỏ đi gần 20 năm và chung sống với 01 người khác, chưa ly hôn vợ cũ, trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên vợ chồng thì đây vẫn được xác định là tài sản chung vợ chồng. Người chồng có quyền đối với 1/2 khối tài sản này. 

Nếu ly hôn, khi phân chia tài sản chung vợ chồng thì có tính đến phần công sức đóng góp của người vợ và người chồng theo quy định tại Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình 2014.

Trên đây là câu trả lời của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam liên quan đến yêu cầu câu hỏi của bạn. Hy vọng câu trả lời của chúng tôi sẽ hữu ích cho bạn.

Nếu có bất cứ vướng mắc gì về pháp lý mời bạn tiếp tục đặt câu hỏi. Chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp.

Trân trọng cảm ơn.

BBT.Hệ Thống Pháp Luật Việt nam

Lưu ý: Nội dung tư vấn của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam trên đây chỉ mang tính tham khảo. Tùy vào từng thời điểm và đối tượng khác nhau mà nội dung tư vấn trên có thể sẽ không còn phù hợp do sự thay đổi của chính sách hay quy định mới của pháp luật.

Gửi yêu cầu tư vấn