Hệ thống pháp luật
Đang tải nội dung, vui lòng chờ giây lát...
Đang tải nội dung, vui lòng chờ giây lát...

TỔNG CỤC LÂM NGHIỆP  
*******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
*******

Số: 724-LN-QĐ

Hà Nội, ngày 20  tháng 03 năm 1963

 

QUYẾT ĐỊNH

VỀ VIỆC BAN HÀNH CHẾ ĐỘ KIỂM TRA KẾ TOÁN, TÀI VỤ THƯỜNG KỲ TẠI CÁC ĐƠN VỊ THUỘC TỔNG CỤC LÂM NGHIỆP

TỔNG CỤC TRƯỞNG TỔNG CỤC LÂM NGHIỆP

Căn cứ Nghị định số 140-CP ngày 29-09-1961 của Hội đồng Chính phủ quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Lâm nghiệp;
Căn cứ Nghị định số 175-CP ngày 28-10-1961 của Hội đồng Chính phủ ban hành Điều lệ tổ chức kế toán Nhà nước;
Xét tình hình thực tế về công tác kế toán, tài vụ tại các đơn vị thuộc Tổng cục,

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1. -  Để đảm bảo công tác kế toán được chính xác, kịp thời; đảm bảo kỷ luật tài chính thực hiện được nghiêm chỉnh, nhằm đẩy mạnh hạch toán kinh tế, tăng thu tiết kiệm chi, góp phần vào việc hoàn thành kế hoạch kinh tế, tài chính của Nhà nước, nay ban hành Chế độ Kiểm tra kế toán, tài vụ thường kỳ tại các đơn vị thuộc Tổng cục kèm theo quyết định này.

Điều 2. – Các quy định cũ về kiểm tra kế toán, tài vụ trái với bản chế độ này đều bãi bỏ.

Điều 3. – Ông Chánh văn phòng, các ông Giám đốc các Cục, Vụ, Viện, ông Trưởng ban Thanh tra, các ông Hiệu trưởng các Trường trung cấp chuyên nghiệp, Trường Bổ túc nghiệp vụ, các ông Trưởng ty Lâm-nghiệp, các ông Giám đốc các Lâm trường, Công ty, xí nghiệp, Phân-cục, công trường trực thuộc Tổng cục chịu trách nhiệm thi hành quyết định này kể từ ngày ban hành.

 

 

TỔNG CỤC TRƯỞNG
TỔNG CỤC LÂM NGHIỆP




Nguyễn Tạo

 

CHẾ ĐỘ

KIỂM TRA KẾ TOÁN TÀI VỤ THƯỜNG KỲ TẠI CÁC ĐƠN VỊ THUỘC TỔNG CỤC LÂM NGHIỆP

PHẦN THỨ NHẤT :

Chương 1:

NGUYÊN TẮC CHUNG

Điều 1. - Việc kiểm tra kế toán, tài vụ thường kỳ tại các Ty Lâm nghiệp, Lâm trường; Phân cục Lâm sản, Công ty, Xí nghiệp, Công trường, đơn vị kiến thiết cơ bản, sự nghiệp, hành chính, và các đơn vị khác thuộc Tổng cục Lâm nghiệp (gọi tắt là “Kiểm tra kế toán tại các đơn vị”) là một công tác quan trọng trong việc quản lý kinh tế tài chính, nhằm mục đích:

1. Đôn đốc, chấp hành nghiêm chỉnh các chế độ, kỷ luật kinh tế tài chính của Nhà nước, thực hành tiết kiệm, chống quan liêu, lãng phí, tham ô; đảm bảo tăng thu, tiết kiệm chi, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ bản và các công tác sự nghiệp, hành chính khác:

2. Thúc đẩy việc chấp hành đúng đắn các điều lệ, chế độ kế toán tài chính, đảm bảo việc ghi chép, phản ảnh và giám đốc các hoạt động kinh tế, sự nghiệp hành chính được kịp thời, chính xác.

3. Tăng cường cải tiến phương pháp quản lý kinh tế, cải tiến chế độ kế toán, tài vụ, cải tiến tổ chức bộ máy kế toán, tài vụ ngày càng khoa học, phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh xây dựng và các mặt hoạt động khác.

Điều 2. – Công tác kiểm tra quy định trong bản chế độ này là kiểm tra có tính cách toàn diện hay kiểm tra từng mặt, từng việc khi cần thiết theo định kỳ về mặt thực hiện các thể lệ, chế độ kế toán tài vụ, việc chấp hành kỷ luật và kế hoạch kinh tế tài chính của Nhà nước.

Điều 3. - Tất cả các đơn vị, cơ quan tổ chức các cấp thuộc Tổng cục Lâm nghiệp có sử dụng vốn và tài sản của Nhà nước, có ghi chép kế toán và hoạt động tài vụ, đều phải được kiểm tra kế toán tài vụ thường kỳ.

Điều 4. – Các tổ chức phụ thuộc khác (ngoài các đơn vị sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ bản, sự nghiệp, hành chính) tuy không được Nhà nước cấp vốn hoạt động, nhưng có sử dụng một phần tài sản của Nhà nước hay có hoạt động kinh doanh bằng số tiền đóng góp của cán bộ, công nhân, viên chức Nhà nước, bằng số tiền vay Ngân hàng, bằng quỹ xí nghiệp, để phục vụ các mặt sinh hoạt đời sống của anh chị em cán bộ, công nhân, viên chức, đều phải ghi chép kế toán rành mạch và cũng được kiểm tra kế toán thường kỳ.

Các tổ chức ấy bao gồm các loại sau đây:

1. Các xí nghiệp cung tiêu, cung ứng, quán cơm lao động, nhà ăn tập thể; căng tin do các đơn vị thuộc Tổng cục quản lý.

2. Các tổ chức kinh doanh về nhà ở (bao gồm cả điện, nước của công nhân, viên chức) do các đơn vị thuộc Tổng cục quản lý.

3. Các nhà trẻ, trường mẫu giáo, trường học của con cán bộ, công nhân, viên chức, do các đơn vị thuộc Tổng cục quản lý.

4. Các Trạm y tế, bệnh xá do các đơn vị thuộc Tổng cục quản lý.

5. Các tổ chức kinh doanh về câu lạc bộ văn hóa; thể dục thể thao, các tổ, đoàn văn nghệ nghiệp dư, các sự nghiệp công cộng khác do các đơn vị thuộc Tổng cục quản lý.

6. Các tổ chức sản xuất lương thực, các tổ săn bắn, săn bắt, đánh cá, may vá, cắt tóc v.v… do các đơn vị thuộc Tổng cục quản lý.

Điều 5. - Việc kiểm tra phải tiến hành theo nguyên tắc tổ chức về phân cấp quản lý. Đơn vị quản lý kế toán tài vụ cấp trên phải tiến hành kiểm tra thường kỳ các đơn vị phụ thuộc do mình trực tiếp quản lý. Cụ thể:

1. Vụ kế toán, tài vụ chịu trách nhiệm kiểm tra thường kỳ các Cục, Vụ, Viện, Văn phòng, Trường, Ty, Lâm trường, Công ty, Xí nghiệp, công trường và các đơn vị sự nghiệp khác do Vụ trực tiếp quản lý về kế toán, tài vụ.

2. Các Cục, Vụ, Viện, Ty, Lâm trường, Công ty, Xí nghiệp chịu trách nhiệm kiểm tra thường kỳ các Phân cục, Lâm trường địa phương, các xí nghiệp, công trường, đoàn xe và các đơn vị phụ thuộc khác do mình trực tiếp quản lý về kế toán, tài vụ (kể cả các tổ chức phụ thuộc khác đã nói ở điều 4 trên).

3. Các xí nghiệp; công trường, lâm trường địa phương, Phân cục Lâm sản và các đơn vị kiến thiết, sự nghiệp cơ sở chịu trách nhiệm kiểm tra thường kỳ các Phân xưởng, các đội, Trạm, Hạt, cửa hàng, đoàn xe, các bộ phận kho hàng, thu mua, tiêu thụ, và các tổ chức phụ thuộc khác (đã quy định ở điều 4 trên) thuộc mình quản lý.

Điều 6. - Trường hợp cần thiết Vụ Kế toán, tài vụ và các Cục quản lý có thể kết hợp với Ty, Lâm trường, xí nghiệp, Phân cục, Công ty, công trường hay đơn vị hành chính, sự nghiệp và các đơn vị khác đến trực tiếp kiểm tra các đơn vị cơ sở.

Vụ kế toán, tài vụ có thể kết hợp với các Cục quản lý để kiểm tra các đơn vị do các Cục quản lý.

Điều 7. – Ngoài việc đôn đốc kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch thường xuyên, tất cả các đơn vị đã được kiểm tra về công tác kế toán tài vụ mỗi năm từ một đến hai lần.

Đối với các đơn vị, bộ phận nhỏ từ phân xưởng hay đội sản xuất trở xuống (kể cả các kho tàng, bộ phận tiếp liệu v.v…), đối với các tổ chức phụ thuộc vì tính chất và yêu cầu công tác đặc biệt phải ở xa đơn vị chính và được phân cấp trực tiếp quản lý sử dụng một số tiền mặt, tài sản, nhưng không được mở sổ sách kế toán độc lập (như các đội điều tra rừng, đội thi công, các trạm thu mua, tiêu thụ, sản xuất lương thực v.v…), đối với các tổ chức phụ thuộc khác quy định ở điều 4 trên, mỗi quý phải được kiểm tra kế toán, tài vụ một lần; những nơi xét cần thiết và có đủ điều kiện thì nên kiểm tra mỗi tháng một lần.

Điều 8. - Để đảm bảo tốt công tác kiểm tra tiến hành được thuận lợi và đạt kết quả tốt đồng thời không làm ảnh hưởng đến các mặt công tác khác, thời gian kiểm tra phải tiến hành vào khoảng sau khi sơ kết hoặc tổng kết việc thực hiện kế hoạch kỳ đó và chuẩn bị cho việc thực hiện kế hoạch kỳ sau, đồng thời có thể kiểm tra theo mùa (sau mùa sản xuất), hay những lúc không dồn dập lắm của từng địa phương.

Điều 9. - Sự tiến hành kiểm tra sẽ tùy theo quy mô tổ chức và tính chất công tác của đơn vị được kiểm tra, tùy theo tình hình thực tế của các mặt công tác có liên quan khác do đơn vị phụ trách kiểm tra ấn định, nhưng không được vượt quá thời hạn tối đa sẽ quy định.

PHẦN THỨ HAI

Chương 2:

NỘI DUNG KIỂM TRA

Điều 10. - Nội dung chủ yếu của việc kiểm tra kế toán, tài vụ ở các cấp là:

1. Tình hình tổ chức kế toán, tài vụ của đơn vị.

Trong phần này khi cần thiết sẽ kiểm tra theo hướng dẫn cụ thể của cơ quan quản lý cấp trên, nhưng nhất thiết mỗi năm phải kiểm tra một lần.

2. Tình hình thực hiện các thể lệ, chế độ kế toán.

Trong phần này kiểm tra tất cả các phương pháp kế toán về:

a) Chế độ tài khoản

b) Chế độ chứng từ sổ sách

c) Chế độ báo biểu

d) Chế độ phân tích hoạt động kinh tế.

e) Các chế độ khác

3. Tình hình thực hiện các thể lệ, chế độ về kế hoạch và tài vụ:

Trong phần này cần kiểm tra về các mặt:

a) Việc thực hiện kế hoạch thu chi tài vụ.

b) Việc chấp hành các tiêu chuẩn, chế độ và kỷ luật thu, chi tài chính;

c) Việc phân tích và giám đốc tình hình hoạt động kinh tế qua các chi tiêu tiền tệ của tài vụ, kế toán.

Điều 11. - Đối với những đơn vị không phải sản xuất, xây dựng cơ bản hay kinh doanh, không trực tiếp quản lý giá thành hay các loại phí như các đơn vị sự nghiệp, hành chính, trường học và các đơn vị sự nghiệp, hành chính, trường học và các đơn vị khác thì nội dung kiểm tra chủ yếu và đi sâu vào các nguyên tắc, tiêu chuẩn, chế độ chi tiêu và phương pháp ghi chép.

Điều 12. - Nội dung kiểm tra phải được phân tích toàn diện về các mặt:

1. Thành tích, ưu điểm

2. Khuyết điểm nhược điểm

3. Trở ngại, khó khăn và những nguyên nhân chủ quan, khách quan.

4. Những kinh nghiệm trong việc quản lý, hạch toán, chấn chỉnh tổ chức kế toán, tài vụ.

5. Những kiến nghị của cán bộ kiểm tra, đơn vị được kiểm tra và đề nghị của đơn vị được kiểm tra.

Chương 3:

PHƯƠNG CHÂM, PHƯƠNG PHÁP KIỂM TRA

Điều 13. – Việc kiểm tra phải đảm bảo tiến hành được chặt chẽ, trung thực, cụ thể và hợp lý. Ngoài việc dựa vào chứng từ sổ sách kế toán, cán bộ kiểm tra phải dựa vào ý kiến quần chúng, công nhân viên trong đơn vị, dựa vào các kế hoạch và các tài liệu khách quan khác như biểu thống kê của các bộ môn có liên quan quan, các bài báo tường xây dựng nội bộ, ý kiến nhận xét của các cơ quan quản lý địa phương và các cơ quan có liên quan để kiểm tra được đầy đủ hơn.

Điều 14. - Mọi vấn đề phát hiện trong kiểm tra phải có chứng minh thực tế, những vấn đề chưa rõ ràng chưa nên kết luận, cần trực tiếp điều tra thêm.

Ngoài việc kiểm tra tại các bộ phận nghiệp vụ, cán bộ kiểm tra phải dành đủ thời gian đi sát các đơn vị trực tiếp sản xuất, chỉ tiêu như các đội, tổ, phân xưởng v.v… để tìm hiểu một cách thực sự cầu thị và qua tình hình kinh tế để nhận định được đầy đủ và khách quan.

Điều 15. - Đến kỳ hạn kiểm tra hàng năm, quý hoặc tháng, đơn vị quản lý cấp trên phải thông báo cho các đơn vị phụ thuộc, chuẩn bị mọi điều kiện và phương tiện để cuộc kiểm tra tiến hành được thuận lợi; trường hợp cần thiết phải thông báo trước thời gian. Đơn vị kiểm tra phải tích cực bố trí, tạo điều kiện đầy đủ để việc kiểm tra làm được tốt.

PHẦN THỨ BA

Chương 4:

TỔ CHỨC KIỂM TRA, NHIỆM VỤ VÀ QUYỀN HẠN CỦA CÁN BỘ ĐI KIỂM TRA

Điều 16. – Trong mỗi đơn vị, thủ trưởng và kế toán trưởng đơn vị chịu trách nhiệm tổ chức việc kiểm tra công việc kế toán trong nội bộ đơn vị mình cũng như các đơn vị phụ thuộc theo đúng quy định của chế độ kiểm tra này.

Điều 17. - Để giúp thủ trưởng và kế toán trường đơn vị làm tròn nhiệm vụ kiểm tra kế toán, tại mỗi đơn vị kế toán phải tổ chức và phân công một hay nhiều cán bộ chuyên trách kiểm tra. Đối với những đơn vị kế toán có nhiều đơn vị phụ thuộc thì cần tổ chức nhóm hoặc tổ kiểm tra kế toán.

Điều 18. - Tổ chức kiểm tra kế toán hay cán bộ kiểm tra kế toán có nhiệm vụ:

- Trực tiếp kiểm tra các đơn vị phụ thuộc;

- Đôn đốc các đơn vị phụ thuộc thực hiện kế hoạch kiểm tra kế toán đối với các đơn vị cấp dưới;

- Đôn đốc việc kiểm tra thường kỳ trong nội bộ đơn vị theo quy định của điều lệ tổ chức kế toán Nhà nước;

- Tập hợp tình hình kiểm tra kế toán trong đơn vị, đúc rút và phổ biến kinh nghiệm, báo cáo lên cấp trên tình hình và kết quả thực hiện kế hoạch kiểm tra kế toán;

- Theo dõi và kiểm tra việc chấp hành các quyết định và yêu cầu do các đợt kiểm tra đề ra cho các đơn vị.

Điều 19. – Lúc tới kiểm tra một đơn vị, tổ chức kiểm tra kế toán có nhiệm vụ phát hiện tình hình theo nội dung đã quy định qua đó đối chiếu các thể lệ, chế độ của Nhà nước để nhận xét và lập biên bản. Trong trường hợp cần thiết đoàn kiểm tra có quyền yêu cầu các đơn vị cho kiểm tra kho tàng, quỹ tiền mặt và tất cả các tài liệu có liên quan đến kế toán tài vụ, kiến nghị với các đơn vị cơ quan, tổ chức có liên quan; những vấn đề cần phát huy, hay khắc phục trong việc chấp hành thể lệ, chế độ kinh tế tài chính của đơn vị. Những kiến nghị đó phải yêu cầu thời gian thực hiện cụ thể. Đối với những hiện tượng nghiêm trọng, ảnh hưởng đến việc chấp hành kế hoạch Nhà nước, tổn hại đến tài sản quốc gia, tổ chức kiểm tra có quyền yêu cầu đơn vị được kiểm tra sửa chữa ngay đồng thời báo cáo về cơ quan cấp trên đề nghị xử lý kịp thời.

Điều 20. – Lúc kiểm tra xong, Đoàn kiểm tra phải lập biên bản ghi rõ ràng các hiện tượng, ưu khuyết điểm, trở ngại khó khăn, nguyên nhân chủ quan, khách quan, kinh nghiệm quản lý, hạch toán, chấn chỉnh tổ chức và các kiến nghị của từng phần một.

Biên bản này phải báo cáo trước bộ môn kế toán, Ban lãnh đạo Đảng, Công đoàn, Chính quyền của đơn vị và hội nghị toàn thể cán bộ lãnh đạo cơ sở tổ, đội, phân xưởng v.v… đến bộ môn quản lý của toàn đơn vị.

Điều 21. - Nếu đơn vị kiểm tra chưa nhất trí với Ban kiểm tra một số điểm nào trong biên bản, thì phải ghi rõ ý kiến đó vào bản bổ sung chứ không được tự ý sửa chữa lại biên bản, trừ trường hợp Đoàn kiểm tra xét thấy ý kiến của đơn vị là hợp lý và nhận định của mình trong biên bản chưa sát thì có thể thông qua ý kiến tập thể của Đoàn để sửa chữa lại biên bản (ý kiến quyết định sửa chữa hay không sửa, phải được ít nhất 2/3 tổng số ủy viên trong Đoàn biểu quyết).

Điều 22. - Biên bản kiểm tra kế toán phải tuyệt đối giữ bí mật, chỉ được giao cho những người và đơn vị có thẩm quyền nghiên cứu giải quyết và thi hành. Tất cả những giấy tờ và số liệu làm việc trong khi kiểm tra phải được thu hồi, lưu trữ, những tài liệu nào xét thấy không cần lưu trữ thì phải hủy bỏ ngay sau khi kiểm tra xong.

Điều 23. – Cán bộ kiểm tra kế toán phải là người trung thực, chí công vô tư; trong quá trình hoạt động không phạm những khuyết điểm lớn và có năng lực về kế toán tài vụ.

Khi cử người đi kiểm tra phải căn cứ vào yêu cầu, nội dung và đối tượng kiểm tra mà cử cán bộ cho thích hợp với từng trường hợp cụ thể.

Điều 24. - Thủ trưởng đơn vị phải bố trí cán bộ kiểm tra có đủ năng lực, đúng tiêu chuẩn và đủ số, tránh điều động cán bộ kiểm tra kế toán làm việc khác, nhằm tạo điều kiện cho cán bộ kiểm tra kế toán tích lũy kinh nghiệm dần dần nâng cao chất lượng trong công tác kiểm tra.

Đối với những cuộc kiểm tra mà khối lượng công tác tương đối nhiều, số cán bộ chuyên trách đi kiểm tra kế toán không đủ thì thủ trưởng đơn vị đi kiểm tra có thể điều động cán bộ có khả năng kế toán trong đơn vị hay các đơn vị phụ thuộc để làm công tác kiểm tra trong một thời gian nhất định để nâng cao việc học tập trong công tác thực tế.

Cán bộ kiểm tra kế toán phải chấp hành đúng những quy định của Nhà nước về mặt bảo mật và tuyệt đối phải giữ bí mật.

Cán bộ kiểm tra kế toán phải dựa vào luật lệ hiện hành, quyết định của các cấp có thẩm quyền, chỉ thị của thủ trưởng đơn vị của mình, tiến hành kiểm tra công tác kế toán, tài vụ một cách nghiêm chỉnh, trung thực.

Điều 25. – Cán bộ kiểm tra nào cố tình che giấu những hành động tham ô, những hành động vi phạm chế độ, thể lệ, chính sách, bao che làm nhẹ khuyết điểm của những người sai phạm hoặc vi phạm những quy định của Nhà nước về mặt bảo vệ bí mật, thì có thể bị thi hành kỷ luật hoặc truy tố trước pháp luật tùy theo tội nặng nhẹ; nếu có công trong công tác kiểm tra sẽ được khen thưởng.

Chương 5:

TRÁCH NHIỆM VÀ QUYỀN HẠN CÁC CẤP, CÁC ĐƠN VỊ ĐỐI VỚI CÔNG TÁC KIỂM TRA KẾ TOÁN, TÀI VỤ THƯỜNG KỲ

Điều 26. – Khi nhận được báo cáo của Đoàn Kiểm tra, các cơ quan quản lý cấp trên phải kịp thời nghiên cứu và giải quyết vấn đề một cách thỏa đáng trong hai tuần lễ. Đối với các vấn đề nghiêm trọng phải báo cáo cho Ủy ban Thanh tra Chính phủ ở trung ương hay các Ban Thanh tra ở địa phương để giải quyết; đối với những vấn đề khác phải có nhận xét chính thức và đề ra kiến nghị, biện pháp sửa chữa những khuyết điểm đã phát hiện, xử lý đối với những người phạm khuyết điểm v.v…

Điều 27. - Việc kiểm tra kế toán tài vụ thường kỳ chủ yếu là để xây dựng, cải tiến chất lượng công tác ngày càng cao hơn. Nhưng khi kiểm tra phát hiện được các hiện tượng tham ô, lãng phí có tính chất nghiêm trọng thì cơ quan quản lý cấp trên có quyền tăng cường thêm việc kiểm tra, phối hợp với các cơ quan khác để kết luận vấn đề và truy tố trước pháp luật.

Điều 28. - Thủ trưởng và kế toán trường đơn vị được kiểm tra phải trực tiếp phụ trách, theo dõi công tác kiểm tra trong suốt thời gian Đoàn kiểm tra làm việc và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho Đoàn kiểm tra tiến hành công việc được dễ dàng.

Điều 29. – Công nhân, viên chức trong đơn vị được kiểm tra phải tích cực giúp đỡ cán bộ kiểm tra bằng cách phân ảnh trực tiếp hoặc bằng giấy tờ, tình hình chấp hành chế độ, thể lệ kế toán, tình hình giữ gìn và sử dụng các tài sản (vật tư, hàng hóa, vốn bằng tiền v.v…) và góp ý kiến với các bộ kiểm tra kế toán các biện pháp cải tiến, sửa chữa.

Các đơn vị, cơ quan có liên quan với đơn vị được kiểm tra có nhiệm vụ giúp đỡ cán bộ kiểm tra kế toán bằng cách cung cấp các tài liệu cần thiết cho việc đối soát, kiểm tra.

Người nào tích cực phát hiện tình hình, giúp đỡ ý kiến, góp phần làm cho cán bộ kiểm tra đạt kết quả tốt thì được khen thưởng.

Người nào cố tình không giúp đỡ cán bộ kiểm tra; gây khó khăn cho việc kiểm tra và cố tình che dấu những hành động tham ô, vi phạm thể lệ, chính sách thì có thể bị thi hành kỷ luật hoặc truy tố trước pháp luật tùy theo tội lỗi nặng nhẹ.

Điều 30. - Đối với những kiến nghị của Đoàn kiểm tra nhằm uốn nắn những hành động vi phạm chế độ, thể lệ hiện hành, đơn vị được kiểm tra phải chấp hành ngay, nếu cán bộ lãnh đạo đơn vị được kiểm tra không có ý kiến gì khác, nếu có ý kiến thì phải báo cáo bằng văn bản cho Đoàn kiểm tra và đơn vị kế toán cấp trên.

Chương 6:

CÁC VẤN ĐỀ KHÁC

Điều 31. -  Cuối mỗi năm, Vụ Kế toán tài vụ, các Cục quản lý, Ty Lâm nghiệp, Công ty, Lâm trường, Phân cục, Xí nghiệp, các đơn vị sự nghiệp, hành chính và các đơn vị khác v.v… phải đặt kế hoạch kiểm tra kế toán cho năm sau.

Trong kế hoạch phải ghi rõ: tên các đơn vị được kiểm tra, phạm vi và yêu cầu kiểm tra toàn diện hay từng mặt công tác, thời gian kiểm tra cho từng đơn vị.

Trường hợp khi phát hiện ra những vụ tham ô, lãng phí, vi phạm chính sách, nguyên nhân là do thiếu kiểm tra hoặc không kiểm tra thì đơn vị quản lý cấp trên sẽ phải chịu trách nhiệm một phần.

Điều 32. - Kỳ kiểm tra ở một đơn vị phải tính bắt đầu từ ngày kết thúc cuộc kiểm tra kỳ trước tại đơn vị đó để đảm bảo toàn bộ hoạt động đơn vị đó được kiểm tra liên tục, không đứt quãng giữa hai lần kiểm tra.

Điều 33. – Khi tiến hành kiểm tra công việc kế toán của một đơn vị nào thì đoàn kiểm tra hay cán bộ kiểm tra phải xuất trình với thủ trưởng đơn vị được kiểm tra lệnh hay giấy ủy nhiệm kiểm tra hợp lệ của đơn vị cấp trên đơn vị được kiểm tra.

Trong lệnh hay giấy ủy nhiệm kiểm tra kế toán tài vụ phải ghi rõ:

- Tên đơn vị được kiểm tra;

- Yêu cầu, nội dung kiểm tra;

- Thời gian tiến hành kiểm tra;

- Họ, tên và chức vụ của cán bộ kiểm tra,

Điều 34. – Khi đến kiểm tra một địa phương, cán bộ kiểm tra kế toán phải báo cáo trước trao đổi ý kiến với Ủy ban hành chính địa phương (tỉnh, thành phố, khu v.v…) và sau khi kết thúc kiểm tra, gửi một bản biên bản báo cáo cho Ủy ban hành chính địa phương biết.

Điều 35. – Khi đến kiểm tra và sau khi xuất trình lệnh hay giấy ủy nhiệm kiểm tra cho thủ trưởng đơn vị được kiểm tra, cán bộ kiểm tra có thể đề nghị cho kiểm tra ngay tiền mặt tồn quỹ, chứng phiếu có giá trị, tem v.v…. hay hàng hóa, vật tư, tài sản khác tồn kho mà không cần báo cáo cho người phụ trách bảo quản hiện vật biết trước.

Trước khi kiểm kê hàng hóa, vật liệu v.v… cán bộ kiểm tra phải kiểm tra tính chất chính xác của dụng cụ đo lường của người phụ trách hiện vật.

Điều 36. – Trong quá trình kiểm tra, nếu xét thấy cần thiết, cán bộ kiểm tra có thể lấy ra những chứng từ để điều tra nghiên cứu thêm và thay vào đó những giấy biên nhận có ký tên.

Điều 37. - Tất cả các chi phí của cán bộ đi kiểm tra (như tiền lương và các khoản phụ cấp khác) đều do đơn vị kiểm tra đài thọ, nếu có điều động các đơn vị phụ thuộc khác để bổ sung vào Đoàn kiểm tra, thì các khoản chi tiêu này do các đơn vị phụ thuộc cử cán bộ đi đài thọ.

Các chi phí vật liệu, nhân công, giấy tờ và phương tiện làm việc trong lúc kiểm tra đều do đơn vị được kiểm tra đài thọ và ghi vào chi phí quản lý xí nghiệp.

Điều 38. – Khi kết thúc kiểm tra, cán bộ kiểm tra phải kiểm điểm công tác của mình về tinh thần, thái độ, quan hệ công tác và đánh giá kết quả hoàn thành so với yêu cầu, nội dung, thời gian kiểm tra quy định, bản kiểm điểm phải có ý kiến nhận xét của thủ trưởng và kế toán trưởng đơn vị được kiểm tra.

Điều 39. - Để đảm bảo hiệu lực của công tác kiểm tra kế toán, tài vụ, cán bộ lãnh đạo các tổ chức kiểm tra kế toán, tài vụ và các kế toán trưởng phải tổ chức theo dõi và đôn đốc giải quyết các vấn đề do các cuộc kiểm tra kế toán đề ra.

Điều 40. - Bản chế độ kiểm tra này có hiệu lực bắt đầu từ ngày ban hành và áp dụng cho các đơn vị thuộc Tổng cục Lâm nghiệp. Trong quá trình thực hiện, các đơn vị, các cấp có thể đề nghị Tổng cục bổ sung các vấn đề cho đầy đủ hơn, nhưng không được tự ý sửa đổi và làm sai các quy định trong bản chế độ này khi chưa có văn bản sửa đổi chính thức của Tổng cục.