BỘ GIAO THÔNG VÀ BƯU ĐIỆN | VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA |
Số: 01-TT | Hà Nội, ngày 23 tháng 02 năm 1957 |
Chấp hành chính sách vận tải của Đảng và Chính phủ, ngành vận tải quốc doanh cũng như tư doanh đã góp phần quan trọng vào việc phục hồi kinh tế nước nhà. Mặc dù gặp nhiều khó khăn về hàng hóa không đều, nguyên vật liệu khan hiếm…Ngành vận tải đã khắc phục khó khăn để thực hiện kế hoạch Nhà nước năm 1956.
Nhưng còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết như việc xếp dỡ hàng chậm, bắt xe, thuyền phải nằm chờ đợi nhiều ngày, thanh toán cước chậm, bắt bồi thường không hợp lý, vv… làm thiệt thòi đến quyền lợi của người làm nghề vận tải khiến họ không yên tâm kinh doanh, ảnh hưởng không tốt đến chính sách khuyến khích ngành vận tải, có hại cho việc phục hồi kinh tế quốc dân. Mặt khác có những người làm vận tải không thi hành đúng thời gian vận chuyển đã cam kết, không đảm bảo phẩm chất hàng, để mất mát hư hỏng làm thiệt hại đến quyền lợi của người có hàng.
Nay Bộ ban hành “Điều lệ tạm thời về việc thuê và nhận chuyển vận hàng hóa trên đường bộ và đường thủy” nhằm mục đích quy định nhiệm vụ và quyền lợi của người thuê và và người nhận chở.
Bộ ra Thông tư này giải thích những điều cần chú ý của Điều lệ.
Để tận dụng phương tiện vận tải ngày chủ nhật, ngày lễ cũng phải tổ chức xếp dỡ.
Đối với thuyền là phương tiện khó có thể vào tận kho hàng, nếu gặp trời mưa cản trở việc dỡ hàng thì hai bên sẽ cùng nhau thương lượng và thỏa thuận về tiền chờ đợi.
Đối với ô tô, ngày mưa, người có hàng vẫn phải tổ chức xếp dỡ. Nếu quá thời gian xếp dỡ đã quy định trong hợp đồng thì vẫn phải trả tiền chờ đợi.
Để tiện việc tính tiền chờ đợi thì người có hàng cần có giấy chứng nhận ngày giờ đến và ngày giờ đi. Nếu người có hàng có mặt nơi giao hàng thì người có hàng có nhiệm vụ chứng nhận ngày giờ đến và đi. Nếu không có mặt người có hàng thì người nhận chở có thể lấy chứng nhận của cơ quan địa phương (Hành chính, Công an hoặc Giao thông).
Trên đường vận chuyển có khi gặp bão, người nhận chở phải xếp hàng để đảm bảo hàng hóa thì người có hàng phải trả tiền xếp dỡ. Trường hợp phải tăng bo thì phải ghi vào hợp đồng.
Về việc lập biên bản tai nạn khi ở xa cơ quan địa phương trên 10 cây số thì có thể dựa vào anh em đoàn xe, thuyền mà lập biên bản có hai đại diện anh em ký biên bản làm chứng. Việc này phải được sự thỏa thuận của chủ hàng và ghi vào hợp đồng. Nhưng nếu xét biên bản không làm đúng sự thật thì người nhận chở vẫn phải đền. Ngoài ra người nhận chở và người làm chứng còn chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Tỷ lệ hao hụt là vấn đề phưc tạp. Hàng hóa chịu ảnh hưởng của thời tiết, thời gian vận chuyển, tính chất dễ, khó của luồng vận chuyển và tính chất khô ướt của hàng. Muối sản xuất 7 ngày ít hao hụt hơn muối sản xuất 3 ngày, thời gian vận chuyển ngắn ít hao hụt hơn vận chuyển thời gian dài, v.v..... Hai bên phải theo dõi thực tế mà quy định tỷ lệ cho sát.
Trong vấn đề hao hụt chủ yếu là phải đề cao giáo dục ý thức bảo vệ hàng hóa và tinh thần trách nhiệm. Hai bên cần xây dựng quan hệ thực thà, tín nhiệm lẫn nhau. Khi hao hụt quá tỷ lệ thì cần nghiên cứu hoàn cảnh thực tế để xử lý cho đúng, chống tình trạng người nhận chở không tốt có dịp ăn cắp hàng, những cũng phải tránh việc bắt đền oan.
Chương III bản Điều lệ nói về việc xử lý hợp đồng. Hợp đồng là bản giao kèo giữa hai bên. Hợp đồng phải nói rõ chi tiết rõ ràng về tất cả các điều mà hai bên đã thỏa thuận. Hợp đồng càng chi tiết càng tốt vì nó là cơ sở để xử lý khi xảy ra trường hợp không thi hành đúng. Ví dụ: cách giao nhận hàng cần nói rõ hàng giao ở bến hay ở kho, định tỷ lệ hao hụt ở kho hay ở bến, cũng như vấn đề bồi thường phải thảo luận trước và ghi rõ vào hợp đồng trường hợp nào thì phải đền, thời gian dỡ hàng quy định cho một xe, một thuyền hay cả đoàn, dỡ hàng thì chỉ để xuống bờ sông hay đưa vào kho, vv…
Lời văn của hợp đồng phải thể hiện được ý muốn cam kết của hai bên mà không thể có sự hiểu lầm bằng cách nào khác và hai bên có nhiệm vụ thi hành nhiêm chỉnh.
Hợp đồng phải ký kết trên nguyên tắc tự nguyện và bình đẳng.
Trong thực tế thì giữa vận tải tư nhân và các cơ quan Quốc doanh thường gặp nhiều mắc mứu cho nên bản điều lệ này nhằm giải quyết quan hệ giữa cơ quan Chính phủ có hàng và vận tải tư nhân là chính. Đối với tư nhân thì tùy theo sự thỏa thuận giữa hai bên, hết sức tránh bắt buộc họ phải làm nhiều giấy tờ phiền phức.
Để thi hành đúng lệ tạm thời này, Ủy ban Hành chính tỉnh và thành phố có nhiệm vụ lãnh đạo các cơ quan giao thông làm những việc sau đây:
KT. BỘ TRƯỞNG |
- 1 Thông tư 61/2015/TT-BGTVT quy định về vận tải hàng hóa trên đường thủy nội địa do Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải ban hành
- 2 Nghị định 40-NĐ năm 1957 Ban hành bản điều lệ tạm thời về chuyển vận hàng hóa trên đường bộ và đường thủy do Bộ trưởng Bộ Giao thông và Bưu điện ban hành
- 3 Nghị định 750-PHC năm 1945 về việc cho phép các hãng vận tải bằng đường thủy đã do Hội đồng Vận tải công nhận, được thu ngoài tiền chở hàng ra, một thứ tiền đặc biệt gọi là tiền đi thuyền không do Chủ tịch Uỷ Ban Hành Chính Bắc Bộ ban hành.
- 1 Nghị định 40-NĐ năm 1957 Ban hành bản điều lệ tạm thời về chuyển vận hàng hóa trên đường bộ và đường thủy do Bộ trưởng Bộ Giao thông và Bưu điện ban hành
- 2 Nghị định 750-PHC năm 1945 về việc cho phép các hãng vận tải bằng đường thủy đã do Hội đồng Vận tải công nhận, được thu ngoài tiền chở hàng ra, một thứ tiền đặc biệt gọi là tiền đi thuyền không do Chủ tịch Uỷ Ban Hành Chính Bắc Bộ ban hành.
- 3 Thông tư 61/2015/TT-BGTVT quy định về vận tải hàng hóa trên đường thủy nội địa do Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải ban hành