THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ | VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA |
Số: 097-TTg | Hà Nội, ngày 28 tháng 02 năm 1959 |
Trên cơ sở những thắng lợi to lớn của thời kỳ khôi phục kinh tế và năm đầu thực hiện kế hoạch 3 năm, hiện nay tình hình vật giá và tiền tệ đã căn bản ổn định, nền kinh tế quốc dân đương trên đà phát triển. Đảng và Chính phủ xét thấy cần thiết phải thay đổi đơn vị tiền tệ để thuận tiện cho việc tính toán tài chính, mở rộng giao lưu hàng hóa, đẩy mạnh sản xuất, cải thiện thêm một bước đời sống nhân dân, đồng thời củng cố chính quyền dân chủ nhân dân, đề cao hơn nữa tính chất ưu việt của chế độ ta.
Đơn vị tiền tệ thay đổi theo tỷ lệ 1 đồng tiền mới ăn 1.000 đồng tiền cũ, nhưng giá trị hàng hóa không thay đổi, nghĩa là với 1 đồng tiền mới vẫn mua được số hàng giá trị bằng 1.000 đồng tiền cũ.
Để thống nhất việc tính toán tài chính và việc ghi chép kế toán theo đơn vị tiền mới, Thủ tướng phủ quy định những cách thức cụ thể như sau:
1. Chuyển sổ sách kế toán từ đơn vị tiền cũ sang đơn vị tiền mới.
Ngay sau khi phát hành tiền mới, các cơ quan, đoàn thể, đơn vị bộ đội, trường học, xí nghiệp công và tư, hợp tác xã, v,v… phải khóa sổ sách kế toán và căn cứ tỷ lệ 1/1000 mà chuyển các số dư tài khoản và tiểu khoản sang đơn vị tiền mới.
Việc chuyển các số dư từ đơn vị tiền cũ sang đơn vị tiền mới theo nguyên tắc là: nếu số tiền chuyển qua đơn vị tiền mới có số lẻ trên 5 phần mười xu thì nhắc lên thành 1 xu, còn số lẻ từ 5 phần mười xu trở xuống thì coi như không có và bỏ đi.
Ví dụ: Số dư tài khoản theo đơn vị tiền cũ là 6.656 đ, chuyển sang đơn vị tiền mới sẽ là 6đ656. Trường hợp này, phải nhắc 6 phần mười xu lên thành 1 xu và số tiền chuyển sang đơn vị tiền mới phải ghi là 6đ66.
Những số dư đã chuyển sang đơn vị tiền mới phải dùng mực đỏ ghi vào đầu trang sau và thành khởi điểm cho việc ghi chép tiếp tục bằng đơn vị tiền mới.
Việc khóa sổ phải được Kế toán trưởng và phụ trách cơ quan, xí nghiệp, v.v… xác nhận là đúng.
Kể từ ngày bắt đầu phát hành tiền mới, tất cả những hóa đơn, chứng từ kế toán đều phải lập theo đơn vị tiền mới.
Những hóa đơn, chứng từ kế toán lập trước ngày phát hành tiền mới do các cơ quan, xí nghiệp khác gửi đến sau ngày khóa sổ, đều phải đóng dấu hoặc ghi bằng mực đỏ: “Đơn vị tiền cũ” và được kế toán trưởng, phụ trách cơ quan, xí nghiệp kiểm soát và xác nhận việc chuyển số liệu từ đơn vị tiền cũ sang đơn vị tiền mới.
- Đối với Ngân hàng quốc gia Việt
Để đề phòng nhầm lẫn và rối loạn về sổ sách, ngay sau khi có công bố của Chính phủ về việc thay đổi đơn vị tiền tệ, phát hành tiền mới, thu đổi tiền cũ, các Chi nhánh Ngân hàng có Kho phát hành và Ngân hàng Trung ương phải lập hội đồng để kiểm soát các Chi kho và Tổng kho phát hành xem những số tiền tồn kho có phù hợp với sổ sách không. Hội đồng phải xác nhận kết quả việc kiểm soát ngay trên sổ sách.
- Kể từ ngày bắt đầu phát hành tiền mới, các cơ quan, xí nghiệp, tổ chức chịu sự quản lý tiền mặt của Ngân hàng quốc gia Việt Nam phải đem tồn quỹ tiền mặt đến Ngân hàng có tài khoản của mình đổi lấy tiền mới. Những thu nhập bằng tiền cũ phải nộp hết vào Ngân hàng, mọi việc chi tiêu phải dùng tiền mới.
Đối với Ngân hàng, những số tiền cũ do quỹ nghiệp vụ thu vào, đến cuối mỗi ngày, phải đem đổi lấy tiền mới và ghi vào sổ quỹ coi như thu bằng tiền mới. Mọi khoản chi ra phải dùng tiền mới.
Các giấy tờ trên đây lập trước ngày phát hành tiền mới vẫn tiếp tục có hiệu lực, nhưng phải căn cứ vào tỷ lệ 1/1.000 mà tính sang đơn vị tiền mới.
Để tránh khỏi nhầm lẫn, cần phải đóng dấu hoặc ghi bằng mực đỏ “Đơn vị tiền cũ” lên trên tất cả các giấy tờ nói trên và lấy ngày lập các giấy tờ đó để phân biệt đơn vị tiền cũ với đơn vị tiền mới.
Trong nhân dân, ai có khế ước, hợp đồng, giấy vay mượn lẫn nhau đều có thể xin Ủy ban hành chính các cấp xác nhận việc chuyển đơn vị tiền cũ sang đơn vị tiền mới.
Vé giá cả hàng hóa, cần cố gắng làm tròn giá đơn vị hàng bằng tiền mới để tiện lợi cho việc tính toán. Trường hợp giá đơn vị không làm tròn được thì lấy giá 10 đơn vị cho tròn và làm thành đơn vị giá cả. Ví dụ: 1 vuông vải khổ hẹp giá là 163 đ tiền cũ, tức là 0đ163 tiền mới, thì tính 10 vuông làm một đơn vị giá cả theo tiền mới là 0đ163 x 10 = 1đ63.
Về thuế, cần dựa vào giá của Mậu dịch quốc doanh để tính và lập thành biểu thuế theo tiền mới.
Các thứ vé tàu, vé xe, tem bưu điện, tem thuế, vé rạp hát, chiếu bóng, v.v… ghi bằng tiền cũ khi bán ra phải tính theo tỷ lệ 1/1.000. Tùy theo khả năng có thể đóng dấu giá mới lên trên giá cũ. Nhưng nếu phải in thêm hoặc in cái mới thì nhất thiết phải in theo đơn vị tiền mới.
Kể từ ngày bắt đầu phát hành tiền mới, cần phải niêm yết rộng rãi các biểu giá, biểu thuế, biểu cước phí, v.v… bằng đơn vị tiền cũ và đối chiếu bằng đơn vị tiền mới. Cần lưu ý kiểm tra việc thi hành, không để xảy ra tình trạng nhầm lẫn, lợi dụng, gian lận.
4. Chuyển các số liệu thống kê.
Kể từ ngày bắt đầu phát hành tiền mới, tất cả các biểu thống kê phải lập theo đơn vị tiền mới. Trên các biểu thống kê cần phải ghi rõ “đơn vị tiền mới”.
Để tiện cho việc theo dõi và so sánh số liệu cả năm 1959, các biểu thống kê từ đầu năm 1959 lập theo đơn vị tiền cũ cần phải chuyển sang đơn vị tiền mới. Các biểu thống kê chuyển sang đơn vị tiền mới phải được người phụ trách cơ quan kiểm soát lại và xác nhận đúng.
Công việc chuyển đơn vị tiền cũ sang đơn vị tiền mới là một công việc quan trọng và phiền phức. Yêu cầu các vị Bộ trưởng, Thứ trưởng, các Ủy ban hành chính địa phương chú ý lãnh đạo các cấp và tổ chức trực thuộc, đề cao tinh thần trách nhiệm, làm thật tốt công việc chuyển này, quyết tránh những khó khăn trong việc tính toán, ghi chép, so sánh số liệu, ngăn ngừa những việc nhầm lẫn, lợi dụng, gian lận.
Tùy theo sự cần thiết, các Bộ có thể hướng dẫn cụ thể làm thêm cho các cấp và tổ chức trực thuộc thi hành thông tư này cho được chu đáo.
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ |
- 1 Nghị định 27-VP/NgĐ năm 1959 về việc phát hành các loại tiền mới do Tổng giám đồc Ngân hàng Quốc gia Việt Nam ban hành
- 2 Sắc lệnh số 015/SL về việc cho phép Ngân hàng Quốc gia phát hành tiền mới thay đổi bằng tiền đang lưu hành do Chủ tịch nước ban hành
- 3 Nghị định 095-TTg năm 1959 về việc cho phép Ngân hàng quốc gia phát hành tiền mới, thay đổi tiền đang lưu hành do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 4 Thông tư 123-TC/HCP/P3 năm 1958 bổ sung thêm về thể lệ đổi tiền miền Nam cho bộ đội, cán bộ và đồng bào miền Nam tập kết ra Bắc do Bộ Tài Chính ban hành
- 1 Thông tư 123-TC/HCP/P3 năm 1958 bổ sung thêm về thể lệ đổi tiền miền Nam cho bộ đội, cán bộ và đồng bào miền Nam tập kết ra Bắc do Bộ Tài Chính ban hành
- 2 Sắc lệnh số 015/SL về việc cho phép Ngân hàng Quốc gia phát hành tiền mới thay đổi bằng tiền đang lưu hành do Chủ tịch nước ban hành
- 3 Nghị định 27-VP/NgĐ năm 1959 về việc phát hành các loại tiền mới do Tổng giám đồc Ngân hàng Quốc gia Việt Nam ban hành
- 4 Nghị định 095-TTg năm 1959 về việc cho phép Ngân hàng quốc gia phát hành tiền mới, thay đổi tiền đang lưu hành do Thủ tướng Chính phủ ban hành