BỘ TÀI CHÍNH | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 105-TC/ĐT | Hà Nội, ngày 08 tháng 12 năm 1994 |
CỦA BỘ TÀI CHÍNH SỐ 105 TC/ĐT NGÀY 8-12-1994 HƯỚNG DẪN BẢO HIỂM CÁC CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG
Căn cứ Điều lệ "Quản lý đầu tư và xây dựng" ban hành kèm theo Nghị định số 177/CP ngày 20/10/1994 của Chính phủ;
Căn cứ Nghị định số 100/CP ngày 18/12/1993 của Chính phủ về kinh doanh bảo hiểm và các thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính;
Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện bảo hiểm công trình xây dựng như sau:
1. Chủ đầu tư các dự án đầu tư thuộc sở hữu Nhà nước phải tiến hành mua bảo hiểm công trình xây dựng.
Các dự án đầu tư trực tiếp thuộc nguồn vốn của nước ngoài sẽ áp dụng theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
2. Chủ đầu tư phải mua bảo hiểm cho công trình tại một Công ty bảo hiểm được phép hoạt động tại Việt Nam. Phí bảo hiểm là một bộ phận vốn đầu tư của dự án tính theo tỷ lệ phần trăm so với giá trị công trình.
3. Các tổ chức nhận thầu xây lắp, các tổ chức tư vấn mua bảo hiểm cho vật tư, thiết bị, nhà xưởng phục vụ thi công, bảo hiểm tai nạn con người, bảo hiểm trách nhiệm đối với người thứ ba, bảo hiểm cho sản phẩm khảo sát, thiết kế trong quá trình thực hiện dự án. Phí bảo hiểm tính vào chi phí sản xuất.
4. Bảo hiểm công trình xây dựng phải thể hiện trong nội dung hồ sơ mời thầu hoặc tổng dự toán công trình.
1. Đối tượng mua bảo hiểm (người tham gia bảo hiểm):
- Chủ đầu tư các dự án thuộc sở hữu Nhà nước.
- Các tổ chức có liên quan đến các dự án đầu tư, xây dựng thuộc sở hữu Nhà nước như: Tổ chức tư vấn khảo sát, thiết kế, cung ứng vật tư, thiết bị và các tổ chức xây lắp...
2. Những loại hình bảo hiểm:
2.1. Đối với chủ đầu tư các dự án thuộc sở hữu Nhà nước:
Khi tiến hành đầu tư và xây dựng, chủ đầu tư phải mua những loại bảo hiểm sau đây:
+ Bảo hiểm vật tư, thiết bị xây dựng thuộc trách nhiệm quản lý của chủ đầu tư trong quá trình vận chuyển từ nơi mua đến chân công trình (đối với vật tư thiết bị mua theo giá CIF chỉ tính từ nơi nhận hàng trong nước) và đang bảo quản trong kho. Phí bảo hiểm được tính vào giá của vật tư thiết bị.
+ Bảo hiểm công trình xây dựng trong quá trình xây lắp để đối phó với những thiệt hại do những rủi ro bất ngờ như cháy, lũ lụt, động đất, ... Phí bảo hiểm là một bộ phận của giá dự toán công trình xây dựng và tính theo tỷ lệ phần trăm trên dự toán công trình và được quyết toán trong khoản mục chi phí khác.
2.2. Đối với các tổ chức có liên quan đến các dự án đầu tư xây dựng thuộc sở hữu Nhà nước:
Cần mua các loại bảo hiểm sau:
+ Bảo hiểm tài sản thuộc trách nhiệm quản lý như máy móc, thiết bị thi công.
+ Bảo hiểm trách nhiệm bao gồm trách nhiệm đối với thiệt hại thân thể (chết hoặc bị thương) và tài sản của người thứ ba trong quá trình thi công, bảo hiểm tai nạn con người (bảo hiểm trách nhiệm đối với người lao động của tổ chức nói trên trong thời gian được bảo hiểm), bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của tổ chức tư vấn đầu tư. Phí bảo hiểm được tính vào chi phí sản xuất, kinh doanh trong giá thành sản phẩm hoặc chi phí của các tổ chức nói trên.
3. Cách thức tiến hành mua bảo hiểm, thanh toán phí bảo hiểm và bồi thường:
3.1. Nơi mua bảo hiểm là các công ty bảo hiểm được phép hoạt động hợp pháp tại Việt Nam.
3.2. Thủ tục mua bảo hiểm: Trường hợp không có thoả thuận nào khác giữa người mua bảo hiểm và người được bảo hiểm thì thủ tục mua bảo hiểm sẽ áp dụng như sau:
a) Đối với chủ đầu tư: Chủ đầu tư trực tiếp hoặc uỷ quyền cho các tổ chức xây lắp mua bảo hiểm. Người mua phải nộp đầy đủ các hồ sơ sau đây:
- Hợp đồng mua vật tư, thiết bị.
- Sơ đồ mặt bằng công trình.
- Văn bản tóm tắt về kết cấu và biện pháp thi công công trình.
- Tài liệu liên quan đến khí hậu, thời tiết, địa chất, thuỷ văn của công trình.
- Bản trích lục phần bảo hiểm trong hợp đồng xây dựng.
- Tổng dự toán công trình được duyệt, hoặc giá trúng thầu.
- Những văn bản cần thiết khác theo yêu cầu của quy tắc bảo hiểm.
Căn cứ vào hồ sơ nói trên, công ty bảo hiểm xem xét đánh giá quyết định phí bảo hiểm và cấp giấy chứng nhận bảo hiểm kèm theo đơn bảo hiểm cho chủ đầu tư.
b) Các tổ chức có liên quan đến hợp đồng xây dựng khác: Người mua phải nộp các hồ sơ sau đây:
- Bản kê số lượng, giá trị máy móc, thiết bị thi công trên công trường.
- Bản danh sách lao động tham gia mua bảo hiểm.
- Bản kê những dự án đầu tư đã thực hiện trong 5 năm gần nhất.
- Dự kiến giá trị tài sản xung quanh công trường có thể tổn thất trong quá trình thi công.
Công ty bảo hiểm xem xét, đánh giá và định phí bảo hiểm, cấp giấy chứng nhận bảo hiểm kèm theo đơn bảo hiểm.
3.3. Thanh toán phí bảo hiểm:
- Đối với bảo hiểm hàng hoá, tài sản vật tư thiết bị. Phí bảo hiểm phải thanh toán đầy đủ và đúng hạn theo quy định trong hợp đồng bảo hiểm.
- Đối với bảo hiểm công trình xây dựng: Phí bảo hiểm có thể thanh toán một hoặc nhiều lần theo kế hoạch được duyệt trong năm.
- Đối với các loại bảo hiểm khác, phí bảo hiểm thanh toán một lần.
3.4. Bồi thường:
- Khi xảy ra sự cố thuộc trách nhiệm bảo hiểm người được bảo hiểm phải thông báo ngay cho công ty bảo hiểm và trong vòng 7 ngày sau phải thông báo chi tiết bằng văn bản cho công ty bảo hiểm.
- Công ty bảo hiểm phải cử cán bộ hoặc mời chuyên gia chuyên ngành (khi cần thiết) để đánh giá nguyên nhân, mức độ tổn thất.
- Công ty bảo hiểm phải bồi thường theo đúng các điều kiện và điều khoản của hợp đồng bảo hiểm.
- Đối với các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước và tín dụng Nhà nước phải ưu tiên mua bảo hiểm tại các doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước Việt Nam.
- Các công ty bảo hiểm muốn tiến hành kinh doanh các loại hình bảo hiểm quy định trong Thông tư này phải trình Bộ Tài chính phê chuẩn quy tắc và phí bảo hiểm.
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ban hành. Trong quá trình thực hiện nếu có vướng mắc, đề nghị các Bộ và Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố phản ánh về Bộ Tài chính để nghiên cứu giải quyết.
Nguyễn Sinh Hùng (Đã Ký) |
- 1 Thông tư 65-TC/ĐTPT-1996 hướng dẫn bảo hiểm công trình xây dựng do Bộ Tài chính ban hành
- 2 Quyết định 121/1999/QĐ-BTC công bố Danh mục văn bản quy phạm pháp luật bị bãi bỏ do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành
- 3 Quyết định 121/1999/QĐ-BTC công bố Danh mục văn bản quy phạm pháp luật bị bãi bỏ do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành