BỘ TÀI CHÍNH | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 22-TC/GTBĐ | Hà Nội, ngày 27 tháng 8 năm 1986 |
2. Căn cứ để thực hiện phân phối lợi nhuận là lợi nhuận kế hoạch và lợi nhuận thực hiện của Bưu điện tỉnh, thành phố.
- Lợi nhuận kế hoạch hàng năm của Bưu điện tỉnh, thành phố được xác định trên cơ sở doanh thu kế hoạch, trừ giá thành kế hoạch, trừ thu quốc doanh.
Ngoài lợi nhuận của sản xuất chính (lợi nhuận thuộc các nghiệp vụ bưu chính, điện chính, phát hành báo chí). Bưu điện tỉnh, thành phố làm đường dây (di chuyển, đặt mới), cho thuê bao uỷ thác, hoặc bán phong bì, giấy viết thư, tem chơi, bưu thiếp, bưu ảnh... thì lợi nhuận của các dịch vụ này được coi là lợi nhuận sản xuất phụ.
Lợi nhuận sản xuất chính, sản xuất phụ của Bưu điện tỉnh, thành phố đều phải được kế hoạch hoá trong một kế hoạch sản xuất - kỹ thuật - tài chính thống nhất.
Lợi nhuận thực hiện của Bưu điện tỉnh, thành phố được xác định như sau:
Đối với sản xuất chính được xác định trên cơ sở doanh thu thực hiện trừ chi phí thực tế được duyệt, trừ thu quốc doanh, trừ chênh lệch giá (nếu có).
Đối với sản xuất phụ được xác định trên cơ sở doanh thu thực tế của sản xuất phụ, trừ chi phí thực tế, trừ thu quốc doanh phải nộp và trừ chênh lệch giá (nếu có).
3. Căn cứ để tính mức trích quỹ xí nghiệp, điều kiện để được trích các quỹ xí nghiệp, và phạm vi sử dụng phần lợi nhuận để lại xí nghiệp được áp dụng theo các nguyên tắc quy định tại mục 4 và 5 phần I của Thông tư số 11- TC/CNA ngày 22-7-1986 của Bộ Tài chính.
II. PHÂN PHỐI LỢI NHUẬN VÀ TRÍCH LẬP
Riêng đối với lợi nhuận của sản xuất phụ có sử dụng nguyên vật liệu từ phế liệu, phế phẩm được kế hoạch hoá để lại xí nghiệp 70% và nộp ngân sách Nhà nước 30%.
Toàn bộ phần lợi nhuận để lại Bưu điện tỉnh, thành phố theo kế hoạch được phân phối cho 3 quỹ theo các nguyên tắc quy định tại mục I, phần II Thông tư số 11-TC/CNA ngày 22-7-1986 của Bộ Tài chính.
2. Thực hiện phân phối lợi nhuận:
a) Trên cơ sở tổng số lợi nhuận kế hoạch, số lợi nhuận phải nộp ngân sách Nhà nước nói trên được duyệt và trở thành chỉ tiêu pháp lệnh của Nhà nước giao cho Bưu điện tỉnh, thành phố.
Số lợi nhuận phải nộp ngân sách Nhà nước theo kế hoạch hàng năm được phân thành 4 quý. Bưu điện tỉnh, thành phố có nhiệm vụ nộp đều đặn hàng tháng vào ngân sách Nhà nước (ngân sách Trung ương tại địa phương).
Số được trích ba quỹ theo kế hoạch cả năm nói trên được phân làm 4 quý, Bưu điện tỉnh, thành phố được tạm trích 70% hàng quý vào mỗi quỹ sau khi đã hoàn thành việc nộp lợi nhuận, thu quốc doanh vào ngân sách Nhà nước hàng quý theo kế hoạch được duyệt, có xác nhận của chi cục thu quốc doanh và quản lý tài chính xí nghiệp Trung ương.
b) Hết năm Bưu điện tỉnh, thành phố được tính toán đầy đủ số trích lập ba quỹ xí nghiệp cả năm. Sau khi có ý kiến tham gia của Bộ Tài chính hoặc Sở Tài chính tỉnh, thành phố, Tổng cục Bưu điện xét duyệt quyết toán đồng thời xét duyệt chính thức số trích lập các quỹ xí nghiệp cho Bưu điện tỉnh, thành phố.
Số trích lập các quỹ xí nghiệp cả năm của Bưu điện tỉnh, thành phố được thực hiện như sau:
- Số lợi nhuận trong phạm vi kế hoạch được duyệt của sản xuất chính được phân phối như quy định ở mục 1 phần II nói trên: 50% nộp ngân sách Nhà nước, 50% để lại xí nghiệp.
- Lơi nhuận vượt kế hoạch của sản xuất chính được phân phối: 20% nộp ngân sách, 80% để lại xí nghiệp.
- Lợi nhuận của sản xuất phụ không kể trong mức kế hoạch hay vượt mức kế hoạch đều phân phối: 30% nộp ngân sách, 70% để lại xí nghiệp. Trừơng hợp Bưu điện tỉnh, thành phố không hoàn thành kế hoạch nộp lợi nhuận của sản xuất chính (trên cơ sở của số lợi nhuận thực hiện) thì số lợi nhuận sản xuất phụ phải nộp ngân sách 50%, để lại xí nghiệp 50%.
Tổng số lợi nhuận để lại xí nghiệp (gồm lợi nhuận trong kế hoạch, lợi nhuận vượt kế hoạch và lợi nhuận của sản xuất phụ) được phân phối theo ba quỹ như quy định ở mục I, phần II, sau khi trừ các khoản phải nộp phạt về vi phạm hợp đồng kinh tế, vi phạm quản lý tiền mặt, vi phạm chất lượng thông tin, thanh toán các khoản chi bất hợp lý (như chi phí tiêu cực, lãng phí v.v...).
Nếu Bưu điện tỉnh, thành phố không hoàn thành 2 chỉ tiêu pháp lệnh chủ yếu cả năm nói sau đây:
- Giá trị nghiệp vụ Bưu điện (doanh thu);
- Các khoản phải nộp ngân sách Nhà nước, thì cứ mỗi phần trăm không hoàn thành chỉ tiêu thứ nhất phải trừ đi 2% số tiền được trích vào mỗi quỹ (ba quỹ) và mỗi phần trăm không hoàn thành chỉ tiêu thứ hai phải trừ đi 3% số tiền được trích vào mỗi quỹ (ba quỹ).
Mức độ hoàn thành kế hoạch chỉ tiêu các khoản phải nộp ngân sách được xác định theo hướng dẫn tại mục 2, phần II Thông tư số 11-TC/CNA ngày 22-7-1986 của Bộ Tài chính.
Nếu Bưu điện tỉnh, thành phố để xảy ra chất lượng thông tin bưu điện trong năm kém và vi phạm những chính sách quản lý kinh tế tài chính như vi phạm chế độ báo cáo kế toán thống kê, nộp không đều đặn và kịp thời các khoản phải nộp ngân sách Nhà nước, làm thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, của nhân dân (như làm mất bưu phẩm, bưu kiện) thì cứ mỗi loại vi phạm tuỳ theo mức độ vi phạm phải trừ từ 2 đến 5% số tiền được trích vào mỗi quỹ (ba quỹ). Số phạt trừ nói trên phải được nộp vào ngân sách Nhà nước.
Điều kiện để bưu điện tỉnh, thành phố được trích đủ (100% ) số lợi nhuận để lại xí nghiệp lập ba quỹ theo những quy định trên là Bưu điện tỉnh, thành phố phải hoàn thành 100% số lợi nhuận phải nộp vào ngân sách Nhà nước (có xác nhận của cơ quan tài chính cùng cấp), trên cơ sở số liệu xét duyệt quyết toán hàng năm cho xí nghiệp.
3. Việc sử dụng các quỹ xí nghiệp ở Bưu điện tỉnh, thành phố được quy định như sau:
Bưu điện tỉnh, thành phố sử dụng quỹ phát triển sản xuất để bổ sung cho các nhu cầu về tăng vốn lưu động, vốn tự có về đầu tư xây dựng cơ bản theo chiều sâu, phát triển mở rộng mạng lưới thông tin, phát triển sản xuất phụ. Ngoài ra Bưu điện tỉnh, thành phố trích một phần quỹ phát triển sản xuất nộp lên Tổng cục Bưu điện để lập quỹ dự trữ tài chính tập trung của toàn ngành (tỷ lệ phải nộp cho từng Bưu điện tỉnh, thành phố do Tổng cục Bưu điện quy định cụ thể).
Quỹ dự trữ tài chính tập trung ở Tổng cục Bưu điện được sử dụng để hỗ trợ kịp thời những khó khăn bất thường về tài chính của Bưu điện tỉnh, thành phố theo nguyên tắc hoàn lại hoặc không hoàn lại do Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện quyết định.
Ngoài ra khi cần thiết, Tổng cục Bưu điện có thể huy động một phần quỹ phúc lợi của Bưu điện tỉnh, thành phố để xây dựng công trình phúc lợi chung của ngành (nhà nghỉ mát, viện điều dưỡng, nhà truyền thống...)
Bưu điện tỉnh, thành phố trích 1% quỹ khen thưởng và phúc lợi nộp lên Tổng cục bưu điện để lập quỹ Tổng cục trưởng.
Quỹ Tổng cục trưởng sử dụng theo chế độ quỹ Bộ trưởng (Bộ Tài chính sẽ có văn bản hướng dẫn riêng).
Quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi của Bưu điện tỉnh, thành phố sau khi trích nộp lên Tổng cục để lập quỹ Tổng cục trưởng, quỹ phúc lợi tập trung, số còn lại được sử dụng chi cho khen thưởng và phúc lợi của xí nghiệp theo chế độ hiện hành. Trường hợp vượt quá mức quy định thì xử lý theo các nguyên tắc được quy định ở mục 5, phần II Thông tư số 11-TC/CNA ngày 22-7- 1986 của Bộ Tài chính.
2. Các Bưu điện tỉnh, thành phố phải đăng ký kế hoạch trích lập ba quỹ có phân bổ ra từng quý với cơ quan tài chính cùng cấp và ngân hàng địa phương và được trích hàng quý như quy định ở mục I, phần II Thông tư này.
3. Khi duyệt quyết toán chính thức hàng năm cho Bưu điện tỉnh, thành phố, Tổng cục Bưu điện và Bộ Tài chính với sự tham gia của cán bộ chuyên quản tài chính xí nghiệp tại địa phương duyệt số lợi nhuận chính thức để lại xí nghiệp trích lập ba quỹ và các nhu cầu khác như quy định ở mục 2 và 3, phần II Thông tư này và xác định số lợi nhuận nộp ngân sách Nhà nước. Nếu Bưu điện tỉnh, thành phố sử dụng quá số lợi nhuận để lại được duyệt thì phải trừ vào số trích của năm sau và ngược lại, nếu thiếu được trích thêm.
4. Thông tư này có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm 1986 và được áp dụng cho việc phân phối lợi nhuận cả năm 1986 của Bưu điện tỉnh, thành phố. Những quy định trước đây trái với Thông tư này đều bãi bỏ.
Hồ Tế (Đã Ký) |
- 1 Thông tư 11-TC/CNA-1986 hướng dẫn chế độ phân phối lợi nhuận và trích lập quỹ xí nghiệp trong công nghiệp quốc doanh do Bộ Tài chính ban hành
- 2 Quyết định 76-HĐBT năm 1986 ban hành các bản quy định tạm thời về bảo đảm quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở do Hội đồng Bộ trưởng ban hành