BỘ LAO ĐỘNG, THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI-BỘ NGOẠI GIAO-BỘ NỘI VỤ-BỘ TƯ PHÁP | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 01/TTLB | Hà Nội , ngày 19 tháng 1 năm 1993 |
Ngày 29-4-1992, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ra Quyết định số 145/HĐBT ban hành Quy định tạm thời về việc cho người nước ngoài nhận con nuôi là trẻ em Việt Nam bị mồ côi, bị bỏ rời, bị tàn tật ở các cơ sở nuôi dưỡng do Ngành Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý.
Căn cứ Điều 11 Quy định tạm thời, Liên Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Tư pháp, Ngoại giao, Nội vụ hướng dẫn thực hiện như sau:
I- PHẠM VI ÁP DỤNG QUY ĐỊNH TẠM THỜI
1. Quy định tạm thời chỉ áp dụng đối với việc người nước ngoài nhận con nuôi là trẻ em Việt Nam bị mồ côi, bị bỏ rơi, bị tàn tật, hiện đang sống trong các cơ sở nuôi dưỡng do Ngành Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý. Các cơ sở nuôi dưỡng này bao gồm:
- Các cơ sở do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý.
- Các cơ sở do Sở Lao động - Thương binh và Xã hội địa phương quản lý.
2. Người nước ngoài nói trong Quy định tạm thời là người không có quốc tịch Việt Nam vào thời điểm xin nuôi con nuôi, bao gồm:
- Người có quốc tịch nước ngoài và người không có quốc tịch, kể cả người nước ngoài đang cư trú tại Việt Nam.
Những người nói trên khi xin nhận con nuôi phải lớn tuổi hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên.
II- HỒ SƠ VÀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VIỆC XIN NHẬN CON NUÔI
1. Hồ sơ của người xin nhận con nuôi bao gồm các giấy tờ sau:
a) Đơn xin nhận con nuôi: trong đơn phải ghi rõ họ; tên; ngày, tháng, năm sinh; quốc tịch; nơi thường trú; địa chỉ liên lạc; nghề nghiệp và ghi rõ mục đích chính đáng của việc xin nhận con nuôi; cam kết thực hiện các khoản 2, 3, 4 và 5 theo Điều 8 của Quy định tạm thời. Đơn có kèm theo ảnh của người xin nhận con nuôi.
Trường hợp người xin nhận con nuôi đã biết rõ về trẻ em mà họ xin nhận làm con nuôi thì ghi đủ họ; tên; giới tính; tuổi và cơ sở nuôi dưỡng trẻ em đó.
Trường hợp người xin nhận con nuôi chưa biết về trẻ em mà họ xin nhận làm con nuôi, thì trong đơn nêu rõ về độ tuổi, giới tính, tình trạng sức khoẻ của trẻ em; nếu xin nhận trẻ em bị tàn tật làm con nuôi thì ghi rõ loại tàn tật.
Nếu người xin nhận con nuôi đang có vợ hoặc chồng, thì đơn phải có đủ chữ ký và ghi rõ họ, tên của cả vợ và chồng.
b) Giấy của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ở nước mà người xin nhận con nuôi là công dân hoặc thường trú chứng nhận người đó có đủ điều kiện để nuôi con nuôi theo pháp luật của nước mà người đó là công dân hoặc thường trú và việc xin trẻ em Việt Nam làm con nuôi được thừa nhận là hợp pháp và hợp thức.
c) Giấy chứng nhận của một cơ sở y tế có thẩm quyền ở nước ngoài đó là công dân hay thường trú bảo đảm người xin nhận con nuôi không mắc bệnh truyền nhiễm và tâm thần.
d) Giấy xác nhận về mức thu nhập hàng năm đủ đảm bảo việc nuôi dưỡng con nuôi.
e) Giấy khai sinh.
g) Bản chụp hộ chiếu hoặc giấy tờ thay hộ chiếu.
Giấy chứng nhận trong điểm b, giấy xác nhận mức thu nhập, giấy tờ xác nhận về y tế (nếu được cấp ở nước ngoài) của người xin nhận con nuôi phải được hợp pháp hoá tại các cơ quan Đại diện Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài hoặc tại Vụ Lãnh sự - Bộ Ngoại giao. Nếu người xin nhận con nuôi đang có vợ hoặc chồng thì các giấy tờ ở điểm c, d, e, g phải có đủ của cả hai người.
Tất cả các giấy tờ nói trên phải được dịch ra tiếng Việt và bản dich phải được công chứng theo pháp luật Việt Nam.
2. Trẻ em được xin nhận làm con nuôi phải có các giấy tờ sau:
a) Giấy thoả thuận của Giám đốc cơ sở nuôi dưỡng về việc cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài.
Trong trường hợp còn cha, mẹ hoặc người đỡ đầu thì phải có giấy của cha, mẹ hoặc người đỡ đầu về việc tự nguyện đồng ý cho trẻ làm con nuôi người nước ngoài.
b) Giấy khai sinh; có kèm theo ảnh;
c) Giấy của trẻ em đó về việc tự nguyện đồng ý làm con nuôi người nước ngoài nếu trẻ em từ 9 tuổi trở lên;
d) Giấy xác nhận tình trạng sức khoẻ của trẻ em đó;
e) Các giấy tờ khác theo yêu cầu chính đáng của người xin nhận con nuôi.
Những giấy tờ trên đây do cơ sở nuôi dưỡng trẻ em thực hiện và phải được công chứng theo quy định của pháp luật Việt Nam.
3. Trình tự và thủ tục giải quyết:
Người nước ngoài xin nhận con nuôi phải gửi hồ sơ đến Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Việt Nam. Nếu hồ sơ chưa đủ theo quy định tại mục 1 phần II trên đây thì yêu cầu đương sự bổ sung đầy đủ;
a) Trường hợp người xin con nuôi đã biết rõ về trẻ em xin làm con nuôi:
- Hồ sơ được chuyển ngay về Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi tắt là Uỷ ban nhân dân tỉnh) nơi có cơ sở nuôi dưỡng trẻ em đó. Sở Tư pháp có trách nhiệm giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh kiểm tra, xác minh và đề xuất ý kiến để Uỷ ban nhân dân tỉnh giải quyết. Trong quá trình kiểm tra, xác minh, Sở Tư pháp cần phối hợp với các cơ quan hữu quan (Công an, Ngoại vụ...). Nếu có vấn đề nảy sinh vượt quá thẩm quyền giải quyết thì các ngành hữu quan phải xin ý kiến chỉ đạo của Bộ Chủ quản.
Sau khi nhận được ý kiến của Sở Tư pháp và các ngành hữu quan, Uỷ ban nhân dân tỉnh ra quyết định cho phép (hoặc không cho phép) người nước ngoài nhận con nuôi. Bản sao quyết định này được gửi về Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội để thông báo cho người nước ngoài xin nhận con nuôi biết.
- Thời gian giải quyết hồ sơ xin nhận con nuôi người nước ngoài chậm nhất không quá 2 tháng, kể từ ngày Uỷ ban nhân dân tỉnh nhận được hồ sơ.
- Khi nhận được thông báo chấp thuận, người nước ngoài phải trực tiếp đến Việt Nam để ký bản cam kết với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và làm các thủ tục giao nhận con nuôi. Trong trường hợp thật đặc biệt mà người đó không thể đến Việt Nam vào thời điểm giao nhận con nuôi, thì có thể uỷ quyền cho một thân nhân của người nhận con nuôi, nếu không có thân nhân thì có thể uỷ quyền cho người của tổ chức nói ở điểm 2 Điều 8 của Quy định tạm thời đến Việt Nam để làm thủ tục và nhận hộ con nuôi. Người được uỷ quyền phải có giấy uỷ quyền hợp pháp của người xin nhận con nuôi. Giấy uỷ quyền phải được hợp pháp hoá theo quy định tại mục 1 phần II của Thông tư này và được dịch ra tiếng Việt; bản dịch phải được công chứng theo quy định của pháp luật Việt Nam.
- Việc giao nhận con nuôi cần phải được tiến hành đơn giản, trang trọng tại Uỷ ban nhân dân tỉnh, nơi có cơ sở nuôi dưỡng của trẻ em đó với sự tham gia của các thành phần sau:
+ Đại diện của Uỷ ban nhân dân tỉnh.
+ Đại diện cơ sở nuôi dưỡng trẻ em.
+ Người xin nhận con nuôi (hoặc người được uỷ quyền hợp pháp).
Tại lễ giao nhận, Sở Tư pháp tiến hành đăng ký việc nuôi con nuôi vào sổ hộ tịch và lưu trữ hồ sơ.
b) Trường hợp người xin nhận con nuôi chưa biết rõ về trẻ em xin làm con nuôi thì Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tìm chọn và giới thiệu trẻ em bị mồ côi, bị bỏ rơi, bị tàn tật ở các cơ sở nuôi dưỡng do Ngành Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý. Nếu người nước ngoài xin nhận con nuôi chấp thuận thì sẽ tiến hành các thủ tục như đã quy định tại điểm a mục 3 phần II của Thông tư này.
1. Các Bộ: Lao động - Thương binh và Xã hội, Tư pháp, Ngoại giao, Nội vụ căn cứ vào chức năng nhiệm vụ của mình, hướng dẫn và chỉ đạo các cơ quan thuộc ngành về mặt chuyên môn; đồng thời phải phối hợp chặt chẽ với nhau trong việc thực hiện Quy định tạm thời của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) và giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện.
2. Trong trường hợp Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia với nước ngoài mà người xin nhận con nuôi là công dân có các quy định khác với các quy định của Quy định tạm thời, thì áp dụng các quy định đó của Điều ước quốc tế.
3. Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày ký, đồng thời chấm dứt hiệu lực Thông tư 06/LĐ-TBXH-TT của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành ngày 1-6-1992.
4. Trong quá trình thực hiện Thông tư Liên bộ này, nếu có vướng mắc, cơ quan chức năng ở các địa phương cần xin ý kiến trực tiếp của ngành mình.
Nguyễn Thị Hằng (Đã ký) | Nguyễn Ngọc Hiến (Đã ký) |
Lê Minh Hương (Đã ký) | Nguyễn Duy Niên (Đã ký) |
- 1 Quyết định 241/QĐ-BTP-2007 công bố danh mục văn bản quy phạm pháp luật do Bộ Tư pháp ban hành và Liên tịch ban hành từ năm 1981 đến nay hết hiệu lực do Bộ trưởng Bộ Tư Pháp ban hành
- 2 Quyết định 241/QĐ-BTP-2007 công bố danh mục văn bản quy phạm pháp luật do Bộ Tư pháp ban hành và Liên tịch ban hành từ năm 1981 đến nay hết hiệu lực do Bộ trưởng Bộ Tư Pháp ban hành