HÀNG CẤM
"Hàng cấm" được hiểu như sau:
Hàng hóa bị Nhà nước cấm kinh doanh.
Danh mục các hàng hóa loại này không cố định mà có sự thay đổi. Trong danh mục đó có loại hàng cấm có tính chất vĩnh viễn, không thay đổi như các chất ma túy nhưng cũng có loại hàng cấm không có tính chất như vậy như thuốc lá điếu của nước ngoài... Trong Bộ luật hình sự có nhiều điều luật quy định hành vi phạm tội liên quan đến các hàng cấm cụ thể: hàng cấm là các chất ma túy được quy định là đối tượng của các tội phạm về ma túy; hàng cấm là vũ khí quân dụng, là vật liệu nổ, là chất phóng xạ, là chất độc, là văn hóa phẩm đồi trụy được quy định là đối tượng của các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. Ngoài ra, trong Bộ luật hình sự còn có một điều luật quy định hành vi phạm tội liên quan đến những hàng cấm còn lại - những hàng cấm chưa được quy định cụ thể ở điều luật nào khác. Đó là điều luật quy định về tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm (Điều 155 Bộ luật hình sự năm 1999). Như vậy, diện hàng cấm nói chung rộng hơn so với diện hàng cấm là đối tượng của tội buôn bán hàng cấm.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, hàng cấm được quy định tại khoản 4 Điều 3 Nghị định 30/2018/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 07 tháng 03 năm 2018.