HÀNG GIẢ
"Hàng giả" được hiểu như sau:
Thứ không có giá trị sử dụng của loại hàng mà nó mang tên (hàng giả về nội dung) hoặc tuy có giá trị sử dụng của loại hàng mang tên nhưng mang nhãn hiệu của cơ sở sản xuất khác nhằm lừa dối khách hàng (hàng giả về hình thức).
Hàng giả có thể thuộc tất cả các loại hàng hóa, từ hàng cao cấp đến những mặt hàng tiêu dùng thông thường. Điều này không ảnh hưởng đến tính chất phạm tội của hành vi làm hoặc buôn bán hàng giả. Tuy nhiên, tính chất của hàng bị làm giả có thể làm tăng tính nguy hiểm của loại hành vi này. Ví dụ: Tình tiết “hàng giả là thuốc chữa bệnh” làm tăng tính nguy hiểm của hành vi làm hoặc buôn bán hàng giả và do vậy Bộ luật hình sự đã tách trường hợp phạm tội này ra khởi trường hợp phạm tội bình thường để quy định thành tội danh riêng với khung hình phạt nặng hơn.
Xét về tính chất, một thứ hàng có thể là giả về nội dung hoặc có thể giả về hình thức hoặc có thể giả cả về nội dung lẫn hình thức.
Hành vi sản xuất hoặc buôn bán hàng giả là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm lợi ích của người tiêu dùng cũng như trật tự quản lý thị trường.
Hành vi này bị Luật hình sự Việt Nam coi là tội phạm trước khi có Bộ luật hình sự năm 1985. Trong Bộ luật hình sự năm 1985 và năm 1999, tội phạm này đều được quy định tại chương Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Trong Bộ luật hình sự năm 1999, loại tội phạm này đã được quy định cụ thể hơn. Bộ luật đã quy định 3 tội danh khác nhau tương ứng với 3 loại hàng giả khác nhau, hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh và hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi và hàng giả các loại vật thể khác. Đồng thời, Bộ luật cũng đã quy định rõ ranh giới giữa tội phạm và vi phạm ở loại hành vi phạm tội này.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, hàng giả được quy định tại khoản 8 Điều 3 Nghị định 185/2013/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 15 tháng 11 năm 2013.