Khủng bố
"Khủng bố" được hiểu như sau:
(Hành vi) cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tự do thân thể hoặc uy hiếp tinh thần người khác nhằm mục đích chống chính quyền nhân dân.
Khủng bố là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm an ninh quốc gia qua sự xâm hại quyền nhân thân của người khác. Trong Luật hình sự Việt Nam, khủng bố được quy định là tội phạm trước khi có Bộ luật hình sự đầu tiên (Bộ luật hình sự năm 1985). Khi đó, tội phạm này được quy định là một tội phản cách mạng trong Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng năm 1967. Trong Bộ luật hình sự năm 1985 và Bộ luật hình sự năm 1999, khủng bố đều được quy định là tội phạm thuộc Chương “Các tội xâm phạm an ninh quốc gia”. Theo Bộ luật hình sự năm 1999, tội phạm này đòi hỏi các dấu hiệu sau: chủ thể có hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tự do thân thể hoặc có hành vi đe dọa xâm phạm tính mạng hoặc có hành vi uy hiếp tinh thần công dân khác; mục đích của chủ thể khi thực hiện hành vi nói trên là nhằm chống lại chính quyền nhân dân.
Xét về tính chất khách quan, khủng bố trực tiếp xâm phạm quyền nhân thân của con người (tính mạng, sức khỏe, tự do thân thể cũng như tự do ý chí của người khác). Đối tượng bị xâm phạm ở đây có thể là bất kỳ công dân nào nhưng trước hết là nhân viên nhà nước, nhân viên tổ chức xã hội và người nước ngoài. Hành vi khủng bố tuy trực tiếp xâm phạm con người nhưng đặt trong sự thống nhất với mục đích của chủ thể, hành vi này đồng thời xâm phạm đến an ninh quốc gia.
Hình phạt được quy định cho tội phạm này có mức cao nhất là tử hình.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, tội khủng bố được quy định tại Điều 299 Bộ luật hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015.