UỶ BAN NHÂN DÂN
"Uỷ ban nhân dân" được hiểu như sau:
Cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.
Ở Việt Nam, uỷ ban nhân dân là khái niệm được dùng từ khi có Hiến pháp năm 1980 đến nay, còn theo Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1946 cơ quan này được gọi là Uỷ ban hành chính. Theo pháp luật hiện hành Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra, gồm chủ tịch, các phó chủ tịch và uỷ viên. Chủ tịch uỷ ban nhân dân là đại biểu hội đồng nhân dân, các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân không nhất thiết phải là đại biểu hội đồng nhân dân. Kết quả bầu thành viên của uỷ ban nhân dân phải được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn, kết quả bầu các thành viên uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phải được Thủ tướng chính phủ phê chuẩn.
Uỷ ban nhân dân thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước ở địa phương trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế, quốc phòng, an ninh...
Uỷ ban nhân dân họp mỗi tháng ít nhất một lần do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân triệu tập và chủ tọa. Các quyết định của uỷ ban nhân dân phải được quá nửa tổng số thành viên của uỷ ban nhân dân biểu quyết tán thành. Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu các tổ chức đoàn thể của nhân dân ở địa phương được mời tham dự các phiên họp của uỷ ban nhân dân cùng cấp khi bàn về vấn đề có liên quan, Uỷ ban nhân dân thảo luận tập thể và quyết định theo đa số các vấn đề quan trọng do luật định thuộc thẩm quyền của mình thông qua các phiên họp, đó là: 1) Chương trình việc làm của uỷ ban nhân dân; 2) Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách, quyết toán ngân sách hàng năm và quỹ dự trữ của địa phương trình Hội đồng nhân dân; 3) Các biện pháp thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân về kinh tế - xã hội, thông qua báo cáo của Uỷ ban nhân dân trước Hội đồng nhân dân; 4) Đề án thành lập mới, sáp nhập, giải thể các cơ quan chuyên môn thuộc uỷ ban nhân dân và việc phân vạch, điều chỉnh địa giới, đơn vị hành chính ở địa phương.